Một buổi trua cuối tuần, quanh quẩn trong khu Eden, khu chợ khang trang của nguời Việt vùng Northern Virginia, vào giờ cao điểm tìm một chỗ đậu xe không phải là dễ dàng, cứ chạy vòng quanh từ những con đường mang tên các tướng lãnh Việt Nam, những người đã tuẫn tiết, đã tự kết liễu đời mình sau khi lệnh đầu hàng đuợc phát ra từ người lãnh đạo tối cao của Việt Nam Cộng Hòa. Nào Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, nào Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, nào Ðại tá Hồ ngọc Cẩn… Tôi không bỏ qua cơ hội nói một chút Tiểu sử của các Tướng lãnh anh hùng nầy cho các con tôi, những đứa trẻ sinh truởng tại đất nuớc nầy chỉ biết lõm bõm về lịch sử Việt Nam, và hầu như không có chút hiểu biết gì về Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa.
– Tại sao phải tự tử? Sao cha không tự tử? Cha cũng là lính mà.
Tôi như ngẩn ngơ, tê dại, trí óc tôi như bị đông cứng sau câu hỏi ấy… và tôi không có câu trả lời cho đứa con trai nhỏ của tôi.
Theo chân đon vị tôi, Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 147 TQLC di tản từ Phong Ðiền, tôi trong nhóm nguời của Bộ Chỉ Huy nhẹ tạm trú trong chi khu Hương Trà một ngày truớc đó và hôm sau chúng tôi nhập theo dòng nguời di tản xuôi nam về Ðà Nẵng theo như kế hoạch, gặp lại Bộ Chỉ Huy tại Ðập Ðá, một chút an tâm, không còn lo lắng nữa. Tâm trạng của một anh lính mới tò te như gặp lại người thân sau thời gian thất lạc.
Lần mò cùng nhau trong một đêm trời tối nhu mực, lẳng lặng cùng đoàn người buớc nhanh chỉ nghe những tiếng động lụp cụp va chạm của khẩu súng và dây ba chạc cùng tiếng sè sè thỉnh thoảng phát ra từ chiếc máy truyền tin. Vững tâm đi bên cạnh Ðại Bàng 416 vị Lữ Ðoàn Phó của tôi.
– Dừng lại! – 416 khẽ ra lệnh.
Có tiếng máy nổ của xe tăng mỗi lúc mỗi rõ hon, cảm giác sợ hãi chạy dài theo xương sống tôi, xe tăng của địch chận đuờng chăng?
416 một mình tiến về phía truớc, vài phút sau ông trở lại và ngắn gọn nói:
– Tiếp tục đi.
Thì ra đó là đơn vị bạn.
Rạng sáng hôm sau tất cả chúng tôi đã đến đuợc bờ nam Cửa Thuận An sau khi vuợt phá, chiếc Duyên Vận Hạm 801 đang chờ đợi chúng tôi nhưng vì tàu đậu quá xa bãi trong khi những ngọn sóng khá lớn khiến chúng tôi không lên tàu đuợc theo kế hoạch. Ðại bàng Lâm Thao Ðại Tá Nguyển Thế Luong Lữ Ðoàn Truởng đang liên lạc tìm cách khác, sẽ có các LCU vào để ruớc chúng tôi. Theo kế hoạch BCH Lữ Ðoàn sẽ lên chuyến tàu thứ tư, bình tĩnh và an tâm khi biết rõ ràng rằng khuya nay sẽ có tàu đón chúng tôi. Ngồi xuống trên một triền đồi đầy những cội dương già nhìn ra biển xanh mênh mông với những làn gió mát tôi đang thuởng thức cảnh đẹp của thiên nhiên…
Lần dầu tiên trong đời, tôi chứng kiến và kinh nghiệm những viên đạn như xé gió, như ghim vào da thịt chúng tôi, lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy những thân xác của con người bị hất tung lên cao và rơi xuống bất động bởi những trái đạn súng cối 81 ly, lần đầu tiên trong đời, tôi kinh nghiệm sự tàn phá của những quả dạn nổ tung mang theo thịt, da trộn lẫn với máu tưoi còn nóng hổi tung tóe vào mặt mũi của chúng tôi, như là lần dầu tiên trong d7ời chứng kiến sự tàn phá và hủy diệt của chiến tranh trước sự sống của con nguời.
Ðêm xuống, những tiếng súng cùng các tiếng đạn súng cối cũng thưa dần, không biết có phải trong các chiến trận khác khi đêm xuống khi mà không còn ai nhìn thấy ai, khi mà không còn phân biệt bạn hay thù thì không còn tiếng súng không? Hay tạm nghỉ ngơi để ngày mai đánh tiếp?
Muốn nhắm mắt ngủ một giấc sau những giờ căng thẳng nhung không tài nào làm đuợc, cứ lo sợ vẩn vơ.
Tàu tới!!
Âm thanh động cơ của những con tàu tiếp rước chúng tôi nghe như dễ thương chi lạ, hình ảnh những khối sắt lù lù xuất hiện sau những lớp sương mù trong đêm khuya trên biển như đẹp đẽ làm sao!
Ðại đội Quân Y lăng xăng, cùng các đon vị khác như truyền tin, pháo binh lần lượt mang theo những người bị thương lên tàu và ra khơi.
Con tàu thứ hai xuất hiện, Ðại bàng Lâm Thao Ðại tá Nguyễn Thế Lương, 416 Trung tá Nguyễn Ðăng Tống, Thiếu tá Nguyễn Văn Minh trưởng Ban 3, Trung úy Châu truởng ban 2 cùng Ðại tá Thiệt Liên Ðoàn trưởng liên đoàn 15 BÐQ, người chỉ huy một Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân mà bây giờ chỉ có mỗi mình ông nhờ vào sự che chở của chúng tôi, cùng nhau sánh bước huớng về con tàu đẹp đẽ nầy. Tôi nhớm mình như muốn theo chân Ðại Bàng 416 nhưng khi nhìn qua Ðại úy Lương Văn Cường, Truởng ban 5 vị Chỉ huy trực tiếp của tôi thấy ông không có chút phản ứng làm tôi mất hứng, thôi chờ chuyến kế tiếp và không bao giờ tôi nhìn thấy con tàu thứ tư như theo kế hoạch.
Con tàu thứ 3 xuất hiện lệch một chút về huớng Bắc, ra ngoài khỏi phạm vi phòng tuyến của Lữ Ðoàn. Ðây là con tàu định mệnh cho biết bao nhiêu con người chúng tôi. Vào đến bờ, vì ngoài tuyến của Lữ Ðoàn các đon vị khác nào Bộ Binh, nào Biệt Ðộng Quân cùng TQLC tranh nhau lên tàu, con tàu như không còn chứa đựng thêm nổi nữa vì đầy ắp những con nguời như không còn chỗ trống nào, chưa kể không biết bao nhiêu nguời đang bám víu vào chung quanh thành tàu.
Một tiếng nổ kinh hồn ngay giữa tàu nơi mà dầy đặc những con nguời, dầy đặc những thân thể bằng thịt, bằng xương, không biết rằng có bao nhiêu nguời bị chết hay bị thương sau tiếng nổ ấy, rồi những thân thể còn có thể di chuyển được lại tranh nhau rời khỏi tàu.
Hỗn loạn tiếp diễn với những quả súng cối, B40 và những tràng AK bắn vung vãi vào chúng tôi tại bờ biển chỉ hơn 3 km tập trung hàng ngàn nguời. Chúng tôi chạy nguợc về hướng bắc khi huớng đạn đang hướng về phía nam nhiều hơn, rồi lại chạy trở lại hướng nam để tránh bớt hỏa lực tập trung của địch. Chung quanh tôi không còn ai quen chỉ thấy toàn những gưong mặt lạ mà bảng tên với những màu sắc khác nhau, tôi biết đó là các đon vị đang thất lạc trong hoàn cảnh hỗn độn nầy. Miệng khát, thân mỏi, cảm giác rã rời, trong hoang mang cùng tột tôi cứ theo đoàn nguời khi ngược bắc khi xuôi nam, khi chạy nhanh, khi lê lết với những buớc chân vô định, khi len lỏi sâu vào trong đám đông với hy vọng sẽ có những thân người che chở cho mình từ phía ngoài, khi thẫn thờ lê những bước chân mệt nhọc, thôi mọi chuyện phú cho Trời…
Trong vòng thời gian của ngược xuôi, xuôi ngược ấy có rất nhiều hình ảnh đậm nét khó quên, nhiều hình ảnh thật bi thương, não nề của những người lính chiến, họ đang góp nhặt những viên đạn, những băng đạn, những trái lựu đạn vương vãi đâu đây, họ đang quải trên vai vài dây ba chạc và mỗi người với một nón sắt trên tay chứa đựng những viên đạn, băng đạn mà họ có thể tìm để mang về đơn vị mình để tiếp tục chiến đấu bảo vệ cho chúng tôi, những người đằng sau chiến tuyến.
– Anh Ðống… Tôi mừng rỡ kêu lên khi thấy Trung Si Nhất Ðống của ban 4 đang một mình với cây đại liên 50 mà đã duợc tháo gỡ từ chiếc M113. Trên bờ cát một mình anh đang bắn cầm chừng như bảo vệ cho đoàn nguời đang chạy tới chạy lui như tôi.
– Ở đây với tao mậy, chạy chi cho mệt.
Nhìn nét mặt không một chút lo âu của anh tôi cảm thấy an tâm hơn nhiều.
– Ðược! – Tôi trả lời vỏn vẹn.
– Mầy ở đây nghe, bắn về đằng cái miểu đó, vừa nói vừa chỉ về những bóng dáng khi ẩn khi hiện chung quanh cái miếu xa xa, tao đi kiếm cái nón sắt, lạnh ót quá mậy…
Bắn cầm chừng về phía những bóng người xung quanh miểu khi mà dây đạn cuối cùng cũng không còn bao nhiêu, vừa chờ đợi anh Ðống trở lại, một hồi lâu không thấy, nhớ lại tôi cũng không có cái nón sắt trên đầu, cảm thấy phía sau ót lạnh dần, cảm giác lành lạnh nầy lan dần đến chân, mới hiểu được “lạnh ót” và “lạnh cẳng “là như thế nào”.
Ðêm dần xuống, lại nhập vào dòng nguời về chạy về huớng Nam, khi chạy, khi dừng, khi đi, khi ngồi nghỉ cho đến khi đoàn người bị khựng lại vì địch quân đã tràn ra và chận bắt chúng tôi. Cảm giác thật lạ lùng, như có được một kết thúc cho tâm trạng hoang mang mấy ngày nay, cho dù thế nào đi nữa đó có phải là một kết thúc?
Nhớ lại đoạn cuối của cuốn sách Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy viết:
“… Lại có rất nhiều nguời tự tử .Bây giờ họ không tự tử từng nguời mà họ tự tử tập thể. Không rủ, không hẹn và hầu như họ đều không quen biết nhau trước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè đi nữa họ cũng không thể nhận ra nhau trước khi cùng chết với nhau một lúc. Dòng nguời chúng tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một nguời khác cũng tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, ng7uời thứ tư người thứ năm nhập bọn, họ ngồi với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Tôi không thể đếm nổi là đã có bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ ở giữa vòng tròn người như vậy. Nhiều, thật nhiều quả lựu đạn đã nổ.”
Ðây không phải là hình ảnh của hư cấu mà là những hình ảnh thật, rất thật, đây không phải là những hình ảnh của tưởng tượng để thêm phần bi thảm cho câu chuyện của Anh mà là hình ảnh bi thương và hào hùng của những anh hùng vô danh mũ xanh còn được gọi là lính trừ bị Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam.
– Tự tử hôn mậy?
Lời đề nghị nghe kỳ cục làm sao! lạ lùng làm sao!
Tôi như ngẩn ngơ, ngớ ngẩn, thẫn thờ, thờ thẫn, không biết phải diễn tả một cách thật chính xác cho tâm trạng của mình ngay thời điểm đặc biệt nầy.
“Thủy Quân Lục Chiến thà chết không hàng”
Sau câu nói đồng loạt nầy, lựu đạn nổ… màn khói tan nhanh để thấy rõ những xác nguời trong tư thế cúi gập người lại với nhau, những mái đầu xanh như chụm lại với nhau, cũng có xác bị xô lệch khỏi trật tự nầy, toàn những khuôn mặt như thật trẻ trung chỉ trong khoảng vừa trên 20, lứa tuổi của tôi.
Tôi như ngây dại, thẫn thờ trước hình ảnh bi thương đầy hùng tráng nầy, tôi như không có một chút gì của lý lẽ, hay một chút nguyên nhân nào để giải thích cho câu hỏi trong đầu tôi lúc ấy. Tại sao như vậy?
Cho đến bây giờ cũng thế, tôi cũng không biết phải giải thích như thế nào cho mọi nguời hiểu được tại sao, vì tôi nghĩ rằng chỉ có những người đã từng một lần mặc lấy bộ đồ sọc rằn với phù hiệu TQLC trên vai mới hiểu đuợc là tại sao! Vì đó là truyền thống TQLC Việt Nam.
Lịch sử có ghi lại những cái chết như thế nầy không?
Chúng ta có biết nhiều về những câu chuyện như thế đó không?
Họ là ai?
Tôi là người trong tình cờ cạnh bên họ trong chính giây phút đó mà vẫn không biết họ là ai?
Chỉ biết rằng họ là những anh hùng mũ xanh cùng cái chết thầm lặng.
Những ai đã chết vì Sông Núi
Sẽ sống muôn đời với Núi Sông!
Sẽ sống muôn đời với Núi Sông!
Mũ Xanh Huỳnh Thừa Dũng