Cũng trên diễn đàn này, mới đây tôi đã giới thiệu
về món Phở ở “quê hương tôi” qua bài “Ăn phở ở Tokyo”. Bài viết được bắt đầu
trong lúc Tokyo lạnh buốt khiến tôi mơ…. về Phở và chấm dứt bằng niềm thương nhớ phở. Dù 1 tuần
lễ đã trôi qua, nhưng tôi vẫn còn ngất ngây với… phở, vừa đúng lúc tìm lại được
một “tâm tình” của một người xa xứ lâu năm khi nhớ về…. phở chính gốc xứ Hà
Thành. Giới thiệu luôn cho …. có anh có chị.
Cố nhà báo Lê Thiệp, ông phở 75, nổi tiếng suốt
cả vùng Hoa Thịnh Đốn, một chuyên gia về phở tại Hoa Kỳ sẽ kể cho chúng ta nghe
“cảm tưởng” khi ông đi ăn phở Bát Đàn, phở ngon nhất Hà Nội cùng những ghi nhận
về sự thay đổi của khung cảnh xung quanh
sau hơn 50 năm ông xa cách.
Vũ Đăng Khuê
Ăn Phở Hà Nội
Một
trong những cái háo hức nhất khi đặt chân xuống phi trường Nội Bài là sẽ được
ăn phở Hà Nội, phở chính gốc, phở của những ông Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn
Tuân. Đọc các vị văn sĩ của đất Hà Nội
trở nên một ám ảnh lớn, một ước ao tưởng như không bao giờ có được khi còn ở miền
Nam. Cứ nghe ông Nguyễn Tuân bảo “Ôi, một
giọt nước mà lóng lánh cả quê hương” thì lòng lại rộn lên, thấy mũi như đang cố
hít lấy cái hương vị của một bát phở Hà Nội, bát phở trong ước mơ. Tú Mỡ Hồ Trọng
Hiếu còn viết:
Phở
là quà đáng quí ở đời
Một
vài xu nào đắt đỏ mấy mươi
Mà
đủ vị ngọt ngào thơm béo bổ
-
Đói rồi, kiếm tô phở ăn cho chắc
bụng đã chứ hả? Năm chục năm chưa ăn lại
phở Hà Nội.
-
Sao anh không nói ngay. Chỗ anh ở đường Bát Sứ có phở Bát Đàn nhất Hà
Nội. Gần ngay đó. Nhưng bây giờ quay trở lại sợ tắc đường.
Tắc có nghĩa là
kẹt đường. Tôi bắt đầu làm quen với đất
Bắc thân yêu bằng
những từ ngữ không quen thuộc như “Đại Trà”
là giàu có, là nhiều vô số kể. Tôi cười.
-
Tắc thì thôi, nhưng ở Hà Nội chỗ
nào chả có phở phải không?
-
Để em coi.
Và sau vài câu
bàn bạc với ông tài xế, chiếc ô tô con quẹo vào một con đường khá lớn. Đến chỗ, xe tấp vào và đứa em thò đầu qua cửa
hỏi lớn:
-
Còn phở không?
Từ phía trong
căn hộ tối, một người dơ tay xua xua. Cảnh
đó tái diễn độ hai lần cho đến lần thứ ba thì kết quả lạc quan với tiếng đáp lại:
-
Còn.
Cậu em giải
thích:
-
Ăn phở Hà Nội thế đấy anh ạ. Hàng nào cũng có phở nhưng chuyên phở mới
ngon. Hồi bé anh em mình chỉ toàn ăn phở
gánh anh nhớ không?
Tất nhiên là nhớ. Bởi vậy mới trở về. Nhưng những bát phở của tuổi thơ chỉ là những
hình ảnh lúc hiện lúc mất và cái lưỡi nếm mùi vị thức ăn của thiên hạ đã nhiều
nay muốn tìm lại hương vị ngày xưa.
Quán
vắng tanh, không một người khách. Hai
anh em tôi và cậu tài xế chiếm cái bàn gần cửa để ít nhất có một tí gió trời. Tôi hỏi:
-
Có phở gì em?
-
Anh muốn ăn phở gì?
-
Có sụn, có gân, có gầu không?
Nghe tụi tôi hỏi
han nhau, ông hàng phở góp tiếng:
-
Ối dào, lấy đâu ra của quí thế. Đây chỉ có nạm thôi.
-
Ông cho tôi một bát chín nạm vậy.
-
Em ăn tái trần.
Cũng lại lâu quá
mới nghe lại chữ tái trần. Mỗi lúc tôi cảm
thấy như gần lại tuổi thơ. Ối dào. Tái trần.
Đó không phải là ngôn ngữ ở miền Nam.
Ở miền Nam, chúng tôi quen với những tiếng Sức Mấy hay Tái Sống. Tôi ngồi đó trầm ngâm nhìn ra bên ngoài. Xe cộ ở Hà Nội vẫn chưa đến nỗi đông quá như ở
các thủ đô trên thế giới. Tất nhiên là
xe gắn máy gấp mười xe hơi, có thể nhiều hơn nữa là khác. Tôi vẫn nghe các ông bạn dọa rằng Sài Gòn bây
giờ xe gắn máy như ruồi nên không lấy
làm ngạc nhiên lắm.
Ba tô phở được
bưng ra. Tô đúng là loại Bát Tràng, khá
dày và trắng với hoa văn màu xanh nhòe nhạt.
Tôi ngửi thấy mùi gây bò bốc lên và chợt nhớ đến lời phát biểu của ông bạn
già Trương Cam Vĩnh: “Cậu phải hiểu phở bây giờ nó mất đi cái hương
vị ngày xưa vì thiếu mùi gây bò. Thịt bò
bên Mỹ nó sạch quá, mất hay. Tớ vẫn cứ
nhớ cái mùi đặc biệt đó. Cả Sài Gòn chỉ
có phở Tàu Bay là còn giữ được cái mùi truyền thống này thôi”.
Tôi lẳng lặng
kéo bát phở có mùi truyền thống lệch sang một tí. Đứa em đẩy cho tôi một cái đĩa nhôm vênh vao,
ở trên lổn nhổn dăm ba trái quất nhỏ bằng
đầu ngón tay cái đã cắt đôi. Thấy vẻ mặt
tôi, Hòa, đứa em tôi cười:
-
Chanh đắt lắm và không có nước
nên dân Hà Nội thay chanh bằng quất.
Cũng được anh ạ.
Tôi cười cầm nửa
quả quất hơi xanh xanh vàng vàng lên vắt.
Ba cái hột từ trong vọt ra, to cỡ hột đậu xanh. Hòa cười ngất bảo:
-
Anh bóp từ từ chứ nhanh thế chỉ
có hột ra mà không có nước.
Đầu óc tôi lóe
lên một chi tiết mới. Dạo đang lớn lên ở
Sài Gòn, ông chú tôi đi ăn phở vẫn cằn nhằn về vụ chanh. Ông bảo dân Sài Gòn không biết ăn. Ăn phở phải dùng dấm, mà dấm ta mới đúng, mới
dậy mùi phở. Hỡi ôi, miền Nam trù phú,
chanh quả nào quả ấy to như quả ổi mong những nước và với thế hệ tôi thì không
đứa nào nghĩ đến chuyện chan một thìa dấm vào tô phở cho nó đúng truyền thống. Phải chăng cái truyền thống đó hiện hữu chỉ
vì quê tôi nghèo quá, quả chanh cũng sắt lại, cũng quắt đi nên phải lấy dấm thay chăng?
Những ý nghĩ lẩn
quẩn và cái đầu óc còn lãng đãng vì chưa quen giờ giấc khiến tôi ăn gần hết bát
phở. Lúc đó có một chiếc ô tô con nữa
ghé sát lề và cũng có tiếng gào: “Còn phở
không” và tiếng đáp cũng rất to “Hết phở rồi”.
Tôi nhìn vào chỗ quầy phở. Quầy
được đóng bằng tôn và có lẽ vì trường kỳ kháng chiến nên đôi chỗ đã lỏm xuống
và màu nhôm nay đã ngả sang nâu vàng.
Tôi cố tưởng tượng đến một bó hành lá xanh ngắt, đọt thì trắng tươi treo
lủng lẳng ở trên quầy như tôi vẫn thấy hồi bé.
Bó hành của các xe phở hồi xưa nay mất hút nơi đâu. Hai người thanh niên đang loay hoay với cái
thùng chứa nước sôi nhúng bánh phở. Hơi
nóng vẫn nghi ngút hỏa. Họ bê cái thùng
nhôm tròn dài đó lên và khiêng ra hè, sau đó nghiêng thùng để đổ cái nước đục
trắng ngay vào miệng lề đường. Sau đó, họ
lôi cái thùng nước lèo ra và cảnh cũ lại tái diễn, điều khác duy nhất là một
người cầm cái vợt hứng, chắc là để cặn nước lèo như vụn xương hoặc xác hành gừng
không lọt xuống hệ thống cống rảnh thành phố.
Âu cũng là một thái độ đáng quí, giữ vệ sinh chung cho mọi người.
Mãi quan sát,
tôi quên phéng mất bát phở và khi cầm đũa thì thấy bát phở đã nguội, váng mỡ bắt
đầu hơi đông lại nên đành bỏ qua cái ước muốn thưởng thức cho hết mùi vị phở
chính truyền Hà Nội. Hòa tinh ý phát biểu:
-
Chắc tại cuối nồi họ tắt bếp
nên phở nguội quá. Ngày mai em dẫn anh
đi ăn phở Bát Đàn ngon nhất Hà Nội.
Sáng hôm sau tôi
dậy sớm, phần vì lạ giường lạ chiếu, phần vì đủ thứ tiếng động, tiếng ồn từ đường
phố vọng lên. Hòa hẹn tôi cỡ chín giờ
nên tôi đành ngồi chèo queo bật Ti Vi xem.
Rất nhiều kênh ( chữ mới toanh tôi vừa học được hôm qua) và đủ thứ ngôn
ngữ: ta, Tàu, Nhật, Thái, Mỹ, Pháp, loạn
cào cào. Ấy có cả Đại Hàn nữa. Phim không được chuyển âm má có một cô đọc
theo như lối kể chuyện. Giọng cô xướng
ngôn viên đôi khi cố để mô tả cảnh huống trong phim lúc cao, khi xuống thấp
nhưng trước sau chỉ có một giọng. Loay
hoay một hồi khá lâu, tôi đâm chán và thấy đói.
Tôi bò xuống lobby cái mini hotel hỏi thăm:
-
Anh ơi, phở Bát Đàn có xa đây
không?
-
Ối, ngay đây ấy mà.
Anh ta vung tay
lên gạch ngang trên không giảng giải:
- Đây nhé, hotel chúng
cháu ở phố Bát Sứ. Bác đi ra độ năm chục
bước là phố Bát Đàn. Bác rẽ phải đi một
quãng là thấy phở Gia Truyền Bát Đàn.
Khiếp, ai mách nước mà nhanh thế.
Cả Hà Nội chỉ có phở Bát Đàn là nhất đấy Bác nhá. Ăn sớm mới còn, độ chín giờ là hết phở Bác
ơi.
Tôi cảm thấy vững
bụng. Ít ra thì cũng có hai người dân Hà
Nội đồng ý và như vậy phở Bát Đàn phải ngon.
Lửng thửng tôi đi theo lời chỉ và thầm cho mình thông minh. Nếu chờ Hòa có khi lại hết phở cũng nên. Tôi có hỏi về vụ hết phở này. Tại sao không mở suốt ngày? Chẳng ai giải thích cho tôi cho đến trước khi
rời Hà nội mới được gặp một vị lão tiền bối ba bảy đời ở Hà Nội. Ông cụ có vẻ từng trải, đã vào Sàigòn nhiều lần,
bảo.
-
Ông xa quê hương lâu ngày nên
quên mất đấy chứ. Ngày xưa Hà Nội chỉ ăn
phở buổi sáng cho đến nửa buổi trưa. Ông
nhắc đến các ông văn sĩ tiền chiến, thế có ông nào tả cảnh ăn phở trưa, ăn phở
tối như ở Sàigòn không?
Tôi cứng miệng
không biết nói sao vì suốt từ khi mới lớn cho đến lúc trưởng thành, tôi ăn phở
sáng trưa chiều tối, cả nửa đêm nữa.
Sàigòn đâu có lúc nào thiếu phở.
Thấy mặt tôi tên tỏ, ông bạn vong niên tủm tỉm cười.
-
Ông xa quê lâu quá thế có biết
yến phở là gì không?
Tất nhiên tôi không biết, ông cụ cười bảo:
-
Thế là quên tiếng Việt rồi
nhá. Yến là đơn vị đo lường ngày
xưa. Một yến nặng tương đương với tám
cân. Người ta cân bánh phở bằng yến ông ạ. Thế mới lạ chứ! Nhưng tôi vẫn thấy gọi một yến phở nó thơ mộng
hơn. Đấy, nó thế đấy! Dân Hà Nội chính gốc chúng tôi vẫn cố giữ nếp
nhà, mỗi hàng phở chỉ bán sớm đến gần nửa buổi, giỏi lắm là chục yến phở. Làm gì có cảnh ăn phở ồ ạt như Sàigòn.
Nhưng sáng sớm
hôm đó tôi chưa được giáo dục để hiểu tại sao phở Hà Nội hết sớm thế. Khi tôi tới thì thấy đã có bảy tám người sắp
hàng chờ và tôi lại càng yên tâm hơn.
Tôi tự kiểm điểm chính mình. Nhất
định trông tôi giống y như dân Hà Nội với một cái áo sơ mi dài tay buông thòng
để ra ngoài quần và chiếc quần cũng đã tàn tàn.
Chân tôi đi đôi dép nhựa của mini hotel.
Tôi yên tâm vì không ai thèm nhìn tôi cả. Khi gần đến lượt, tôi chú ý quan sát để khỏi
ngớ ngẩn. Phở có hai giá 8000 và 10000 đồng. Thêm dầu cháo quẩy 1500 đồng. Phở truyền thống Hà Nội ngày xưa làm gì có dầu
cháo quẩy? Hồi đó dù mới chín mười tuổi
tôi vẫn còn nhớ không hề có vụ dầu cháo quẩy.
Hay là vì những năm hữu nghị thắm thiết môi hở răng lạnh nên cái ông Tần
Cối này mới có dịp nằm chểm chệ trên tô phở Việt Nam. Đàng sau cái bàn học nhôm có ba người. Một người phụ nữ đứng giữa, chuyên nhận “óoc
đơ” và thu tiền. Phía bên trái là một
người đàn ông chuyên thái thịt. Phía bên
phải là một ông khác lo nhúng bánh và chan nước lèo. Tôi quan sát thấy tô phở không được lớn lắm
mà tôi thì đói meo nên mở miệng.
-
Một tô chín nạm, với một tô
chín nạm không bánh.
-
Không bán thế.
-
Một tô chín nạm.
Người phụ nữ
trông còn khá trẻ nhìn tôi và nói:
-
Tám nghìn.
Tôi nạp đủ tám nghìn xong thì bà ta bảo:
-
Chờ đấy.
Tôi đứng lách
sang một bên để cho người đứng kế bên tiến lên.
Người đàn ông bên trái liền tay lật đi lật lại miếng thịt chín rồi đặt
xuống, nhanh tay thái. Khi đã thấy đủ,
ông ta bốc bò vào chiếc bát lớn. Nhìn
ông ta thái thịt, lòng cũng vui vui. Tay
ông ta nhanh thoăn thoắt nhấn từng nhát với chiếc dao phở to bản. Thỉnh thoảng ông ta lật chiếc dao lại, nhúm một
tí thịt tái trải ra và dùng sống dao dần nhẹ lên trên có lẽ để cho thịt tái mềm
ra. Đi ăn phở ở Mỹ ở Tây ngay cả ở Đại
Hàn không ai thấy được cảnh thái thịt.
Ít nhất là cũng yên trí là mình được ăn thịt tươi. Sau khi ông bốc thịt vào bát, bát được chuyển
vào giữa và người thiếu phụ bỏ hành ngò xong đẩy bát sang để ông bên phải múc
nước lèo.
Tôi nhìn người
đàn bà, Hà Nội mù hè sáng bảnh mắt mà đã nóng hừng hực có lẽ vì những con gió
Lào, ba ta lại đứng sát lò lửa nên trán lấm tấm mồ hôi, thỉnh thoảng, phải đưa
tay lên quệt. Trước mặt bà ta là một đống
tiền. Tiền Việt Nam hiện tại có nhiều
đơn vị, tờ lớn nhất là nửa triệu và tờ nhỏ nhất là 500 đồng. Những tờ 500, 1000, 2000 có lẽ được in ở những
nhà in rẻ tiền và phát hành từ lâu nên trông bèo nhèo nhơm nhếch. Bà ta lúc đếm tiền, lúc thối tiền xong lại bốc
hành. Còn đang mải quan sát thì nghe tiếng
gọi:
-
Chín nạm của ông kia.
Ông kia là
tôi. Tôi long trọng đưa tay nhận bát phở
và nhìn quanh để kiếm chỗ ngồi.
Phía
trong hơi tối có ba bàn đều kín chỗ.
Quay sang phía ngoài, tôi thấy có một chỗ trống ở một chiếc bàn. Bàn là loại bàn vẫn thấy ở những bộ sô pha,
thấp và bọc phooc mi ca. Tất cả có bốn
chiếc bàn bên ngoài kê trên lề đường sát với một dãy xe gắn máy. Tự nhiên như người Hà Nội, tôi luồn lách, bê
tô phở đến chỗ trống. Chiếc ghế bàng nhựa
ni lông màu đỏ có hoa xanh nhưng đã phai màu nhỏ tí như ghế con nít. Tôi ngồi xuống thì chợt nhớ ra ăn phở phải có
thìa, có đũa. Ngó quanh thấy trên tường
có treo một giỏ tre đựng, tôi nhổm lên lấy xuống tiện tay giật luôn hai tờ giấy
hình vuông cở lớn hơn lòng bàn tay.
Napkin Hà Nội màu ngà ngà, dày như tờ giấy đánh máy.
Vừa
trở lại thì có một ông khác đặt tô phở ngay trước mặt tôi. Ông bạn này trông khá trẻ, quần áo đàng hoàng
nhưng vẻ mặt thì lạnh tanh. Tôi toan
chào làm quen nhưng ngưng lại kịp. Ông
ta dáo dác nhìn quanh và nhoài người sang bàn bên cạnh, chỗ bốn người đang xì xụp,
lôi về phía bàn tôi một đĩa nhôm đựng quất.
Tôi thản nhiên bốc nửa trái quất và với kinh nghiệm xương máu hôm qua, rất
từ từ vắt nửa trái quất vào chiếc thìa.
À, chiếc thìa yêu dấu của năm chục năm về trước tưởng đã tiêu diêu nơi
đâu, nay vẫn sờ sờ trước mặt tôi. Nó được
ép bằng nhôm mỏng tanh và cạnh đủ sắc để làm bạn ta sứt môi nếu không cẩn thận. Tôi bóp nhẹ, bóp nhẹ và hai hột quất lòi ra từ
từ cùng với nước quất nhiều xuống thìa nhôm.
Tôi chơi một lúc ba miếng quất mới đủ cho bát phở. Có cái gì nhờn nhợn trong tôi. Thiên hạ dọa tôi đủ thứ trong đó có vụ đi té
re. Nhưng đã đến Hà Nội mà không ăn như
người Hà Nội e mất tiếng. Vả lại dân Hà
Nội nổi tiếng là sành ăn đến nỗi đã có biết bao nhiêu bút mực để ca tụng món
ngon Hà Nội. Tôi tặc lưỡi múc một thìa
nước dùng lên húp. A, có mùi truyền thống
như hôm qua. Ông bạn ngồi trước mặt tôi lại bỗng ngó
dáo dác. Quay qua quay lại, ông ngó xuống
bàn lôi lên một lọ tương ớt. Hà, tôi
cũng đang cần nó và không bao giờ nghĩ ra nó lại nằm ở đó, trên cái nền đất
nhơm nhếch của vỉa hè. Tôi nheo mày nhìn
xuống, trên đó, vỏ quất, giấy và không biết còn những thứ gì khác vung vãi khắp
nơi. Chờ ông bạn dùng xong, tôi lấy lọ
tương ớt và xịt có hơi nhiều với cái suy nghĩ rất nhà quê rằng ớt có nhiều a
xít phooc mic đủ giết vi trùng.
Tôi
xin nói thật rằng tôi đã ăn hết bát phở chín gầu đó và sau đó không hề đau bụng. Thế có thần diệu không?
Trên
con đường trở về chỗ trọ, tôi thấy lỗi tại tôi trăm bề. Tôi đã đổi, đã thay chứ Hà Nội của tôi vẫn thế,
vẫn là Hà Nội của nửa thế kỷ trước. Nơi
đây, thời gian ngưng lại và tôi đã khám phá ra điều đó khi nhìn thấy gốc cây sấu
được quét vôi trắng. Nó vẫn y như cây sấu
của tôi ngày xưa. Tự nhiên tôi phá ra cười. Ngày xưa, ông Sartre nhìn thấy một gốc cây xù
xì mà phát hiện ra chủ nghĩa hiện sinh.
Tôi vừa nhìn thấy gốc cây sấu, đã phát hiện ra là ở Hà Nội
yêu dấu của tôi, thời gian ngưng lại mà đôi khi lại còn đi giật lùi. Tôi có thua gì ông triết gia nổi tiếng này
đâu.
Lê Thiệp