Wednesday 2 April 2014

TÔI XA HÀ NỘI NĂM LÊN MƯỜI TÁM ... Tùy Bút: Phạm Gia Đại

Khi Hiệp Định Genève ký kết chia hai đất nước ngang qua giòng sông Bến Hải ngày 20 tháng Bẩy năm 1954, lúc đó tôi mới lên chín bằng một nửa cái tuổi mười tám nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhớ mãi bài hát đó về Hà Nội, “Nỗi Lòng Người Đi”, và về quê hương miền Bắc dấu yêu. Tuy còn nhỏ nhưng trong ký ức của tôi không bao giờ phai mờ về những kỷ niệm thuở ấu thơ lúc còn ở Hà Nội, khi đến thăm bác tôi ở Hải Dương và nhất là những năm tháng ở Hải Phòng – thành phố bừng lên rực rỡ vào mùa Hè với những hàng cây cao vút hoa Phượng vĩ, và những năm tiểu học tại ngôi trường dòng St. Joseph. Hải Phòng là nơi tôi đã sống những năm tháng đẹp nhất của thời niên thiếu trước khi di cư vào Nam. Tôi sinh ra tại Nam Định, thành phố lớn thứ ba sau Hà Nội và Hải Phòng nhưng không nhớ một chút gì về thành phố nổi tiếng nhiều nhân tài cho đất nước này vì khi tôi mới sinh ra đời là chạy loạn liên miên để tránh bom đạn và các cuộc chạm súng giữa Pháp, Nhật và Việt Minh. Đó là khoảng thời gian loạn lạc chiến tranh khắp nơi và người dân miền Bắc vẫn còn chịu nhiều tang thương khổ ải dù Thế Chiến Thứ Hai đã chấm dứt từ lâu. Năm tôi sinh ra đời mang nhiều dấu vết thương tâm in hằn lên quê hương miền Bắc – những đau thương không bao giờ có thể quên được, không thể nào xóa nhòa vì hàng triệu người dân quê hiền lành chất phác đã chết thảm vì nạn đói do quân phiệt Nhật Bản gây ra khi họ ra lệnh nhổ hết lúa để trồng đay cho kỹ nghệ chiến tranh của họ tại Đông Dương. Thái Bình là một tỉnh vựa lúa của miền Bắc lại là nơi nhiều nông dân thiệt mạng nhất vì nạn đói năm Ất Dậu. Từng làng từng xã phải tuần tự bỏ vùng quê lên tỉnh để xin ăn và người chết vì kiệt sức vì thiếu ăn nằm phơi thây trên khắp các tỉnh thuộc lưu vực sông Hồng. Mẹ tôi vẫn thường kể lại những ngày tháng bi thương oan khiên đó – mỗi ngày mẹ phải nhìn những xe bò kéo qua nhà chở đầy xác người chết đói nằm cong queo chất đống lên nhau đem đi chôn vội vàng tại các khu đất trống vì nghĩa trang không còn chỗ. Nhiều người sau thời gian dài từ quê lên tỉnh không có gì trong bụng vừa đến trước cửa nhà xin ông xin bà một bát cơm thì ngã xuống đất chết một cách rất thương tâm. Nhờ có cụ nội của tôi biết xem thiên văn nên cụ đã báo động cho họ hàng về một nạn đói khó tránh khỏi nên mẹ tôi đã trữ gạo trong nhà. Nhờ đó mỗi ngày mẹ tôi và chị giúp việc cầm những nắm cơm nhỏ đứng trước cửa nhà phân phát cho những người qua đường, và đã cứu sống được hàng trăm người. Có một cô bé sau khi được mẹ tôi cho ăn và tỉnh lại đã xin vào làm giúp việc cho gia đình không cần lương. Mẹ tôi đã vui vẻ thâu nhận nhưng vẫn cho cô bé một số tiền mỗi tháng. Mẹ kể câu chuyện cười ra nước mắt về cô bé tên Lành này. Vì khi Lành nấu ăn, vốn đã bị bỏ đói quá lâu nên cô bé thường hay ăn vụng thức ăn, mẹ tôi thường bắt gặp nhưng không la rầy gì. Mẹ tôi còn nói nó đói quá lâu tội nghiệp cứ cho nó ăn một thời gian thì sẽ không còn ăn vụng nữa. 

Trong khi miền Bắc hàng triệu người chết đói thì miền Nam thóc lúa đầy vựa nhưng không thể chuyển ra Bắc được. Thân phận nhược tiểu đã phải trả một giá quá đắt khi nằm trong vùng giao tranh của các thế lực thực dân, quân phiệt và cộng sản.

Ba tôi là con trai trưởng và ông nội tôi là anh cả trong bốn anh em, kế ông nội tôi là ông chú mà chúng tôi hồi bé quen gọi là ông Đốc vì ông mà một bác sỹ y khoa được dân chúng yêu mến tại Yên Bái, nhất là ở những miền thượng du trong suốt Thế Chiến Thứ Hai. Ông Đốc luôn giúp đỡ săn sóc mọi người bất kể thành phần trong xã hội và bất kể ngày đêm hay mưa gió, lúc nào trên đầu giường ông cũng máng sẵn chiếc áo blouse trắng và cái cặp đựng ống nghe và dụng cụ y tế của ông để nếu có ai cần đến gõ cửa là ông đến khám bệnh ngay giúp họ. Đối với dân làng và người nghèo, ông không bao giờ nhận tiền của họ và trong nhà ông không bao giờ thiếu hoa quả trái cây và gà vịt – những sản phẩm của dân làng biếu ông để tỏ lòng tri ân đối với người Lương Y như Từ Mẫu. Ông nội tôi theo Đông Y trong khi ông chú lại là Tây Y nhưng hai anh em giống nhau một điểm là lòng thương người và hay giúp đỡ người nghèo qua chữa bệnh miễn phí và chăm sóc họ như người thân trong gia đình. Có phải vì thế mà sau bao nhiêu cuộc chiến thảm khốc giữa Pháp-Nhật rồi Pháp-Việt Minh và sau này Quốc Gia và Cộng Sản mà đại gia đình tôi hầu như được nguyên vẹn dù có trải qua bao phong ba bão táp trong số hàng vạn gia đình khác từ Bắc vào Nam. Tôi đề cập nhiều đến ông Đốc vì có một câu chuyện khi ông đang hành nghề bác sỹ tại Yên Bái làm cho tôi vừa kính phục ông lại vừa băn khoăn. Ông được một sỹ quan Nhật tặng cho thanh kiếm tùy thân để trả ơn ông cứu mạng. Đối với người lính Nhật, thanh kiếm đeo bên người tượng trưng cho danh dự và niềm hãnh diện của họ, gắn liền với bản thân không bao giờ xa rời. Hôm đó vào một ngày đầu thập niên bốn mươi trời đã chạng vạng tối, ông Đốc khi ra đóng cửa phòng mạch thì nhìn thấy một sỹ quan Nhật bị thương rất nặng nằm sõng soài trước hiên nhà. Sau một phút lưỡng lự và với lương tâm của người y sỹ, ông quyết định cứu người sỹ quan đó. Khi bình phục viên sỹ quan đã tặng cho ông Đốc thanh bảo kiếm của anh ta trước khi cúi đầu chào giã biệt. Sau này khi hỏi lại ba tôi về hành động nhân đạo của ông Đốc, ba tôi trầm ngâm không nói gì.

Vào những năm đầu của thập niên năm mươi, ba mẹ tôi đã thành công trên thương trường và trở thành triệu phú tại Hải Phòng và căn biệt thự mà ba tôi xây trên đường Cầu Đất là một trong những dinh thự lớn nhất tại thành phố cảng. Nhưng chẳng bao lâu sau thì xẩy ra biến cố đau thương chia hai đất nước. Chính vì nuối tiếc cái dinh thự nguy nga đó mà ba tôi nhất định không chịu di cư vào Nam. Tôi rất phục mẹ vì mẹ tôi không những khôn ngoan mà còn đảm lược nên đã cứu được cả gia đình mình nữa. Một mặt mẹ tôi gửi ngay trước bốn anh em trai lớn chúng tôi vào Nam theo chuyến bay với các con của cô tôi từ Hà Nội vào Sàigòn. Một mặt mẹ tôi mời cô tôi xuống Hải Phòng để thuyết phục ba tôi. Nhờ có cô tôi thuyết phục nên phút chót ba mẹ tôi mới xuống được tầu há mồm LSD của Hải Quân Mỹ vừa kịp lúc để vào Nam. Lúc nhìn tấm biểu ngữ giăng ngang của các thủy thủ Mỹ chỉ hướng lên tầu đến thế giới tự do với hàng chữ “Passage To Freedom” (Con Đường Dẫn Đến Tự Do) người miền Bắc mới ý thức được việc di cư là cần thiết và là vấn đề sống chết. Nếu ở lại chắc chắn ba tôi đã bị đấu tố hay chết rục trong lao tù cộng sản, gia đình sẽ bị đầy lên vùng kinh tế mới và chết dần mòn ở một xó rừng nào đó trên vùng thượng du rồi. Những người dân ở miền quê và nhiều người ở ngay đô thị vì không có phương tiện di chuyển hay lưỡng lự không chuẩn bị kịp nên đã bỏ lỡ cơ hội di cư vào miền Nam để được hưởng một cuộc sống xứng đáng cho con người. Họ đã phải ở lại trong một xã hội câm nín sau bức màn sắt. Bác Phán chị ruột của ba tôi ở trong hoàn cảnh đó. Bác trai muốn đi nhưng bác gái chần chờ và muốn ở lại. Đến khi ba tôi quyết định đi di cư vào phút chót thì gia đình bên bác Phán tôi vì ở Hải Dương nên không thể chuẩn bị kịp nữa và phải ở lại, và chịu trăm cay nghìn đắng với những con người cộng sản sắt máu không có con tim và nhân tính.

Từ đó Việt Nam bị chia đôi với miền Bắc đắm chìm trong máu lửa của những màn đấu tố giết chóc khủng bố; trong khi miền Nam, đất lành chim đậu, đang bắt đầu xây dựng lên một thể chế Cộng Hòa vững mạnh và phồn thịnh, vươn vai ngang hàng với các nước Á Châu. Trong khoảng thời gian 21 năm miền Nam phú cường và thanh bình thịnh trị là khoảng thời gian kinh hoàng nhất cho dân miền Bắc dưới chế độ cộng sản xã hội chủ nghĩa mà mãi sau này khi mất miền Nam tháng Tư 1975, người dân trong Nam mới hay thì cũng đã muộn màng vì số phần đen tối của họ cũng sẽ không hơn kém gì một miền Bắc đói nghèo và lạc hậu, trong một xã hội mới XHCN mà tính mạng con người như cỏ rác. Tôn giáo và đạo đức, nền tảng gia đình cùng nhân phẩm con người bị chà đạp và hủy hoại.
Nhìn lại lịch sử của dân Việt, ít có dân tộc nào lại mang nhiều vết tích chiến tranh tàn phá nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần như dân tộc Việt Nam. Sau tám mươi năm thực dân Pháp cai trị nước ta với bao đau thương chồng chất vì chủ nghĩa thực dân, lại đến bom đạn cày nát quê hương miền Bắc trong Thế Chiến Thứ Hai theo chân đoàn quân phiệt Nhật Bản vào Đông Dương. Nhưng những đoàn quân lê dương của Pháp và quân phiệt Nhật cũng không ở lại lâu trên đất nước Việt Nam mà sau đó một chủ nghĩa tàn bạo nhất thế giới và vô nhân tính nhất đã du nhập vào miền Bắc và gieo rắc đau thương gấp trăm lần thực dân Pháp và quân Nhật: Đó là chủ nghĩa cộng sản với mưu đồ nhuộm đỏ và thống trị toàn cầu. Một triệu người dân miền Bắc bỏ quê hương ra đi vào Nam năm 1954 những tưởng sẽ được hưởng sự an bình vĩnh cửu trong miền Nam tự do thanh bình nhưng tất cả đã trở thành ảo vọng khi cộng sản quốc tế đã thúc cộng sản Việt Nam xua quân qua vùng phi quân sự và dọc Trường Sơn vào xâm lăng miền Nam. Sau 21 năm được sống trong thanh bình an lạc, vì Hoa Kỳ thay đổi chính sách đối ngoại với đồng minh Nam Việt Nam, Miền Nam đã bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi. Lịch sử nước Việt một lần nữa phải mang vành khăn tang trắng khi miền Nam mất vào tay cộng sản Bắc Việt trong ngày Quốc Hận 30-4-1975. Người dân miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 một lần nữa lại mất quê hương và đất sống và phải tìm đường vượt biển đi tìm tự do trên con đường lánh nạn cộng sản lần thứ hai trong thế kỷ hai mươi. Cuộc Di Cư khổng lồ năm 1954 là cuộc di dân lớn nhất từ Bắc vào Nam nhưng vẫn còn trong phạm vi một nước. Sau khi Sàigòn sụp đổ năm 1975, hàng triệu người lại tìm đường lánh nạn không phải từ Bắc vào Nam mà từ miền Nam ra biển khơi lưu lạc đến bất cứ phương trời nào có tự do và dung nạp họ bởi họ đã quá khiếp sợ và kinh hãi chủ nghĩa cộng sản vô thần và bạo tàn.

Sau 39 năm nhìn lại quê hương miền Nam (1975-2014), chúng ta không khỏi đau lòng buốt giá trong tim khi bao nhiêu triệu người đã phải hy sinh và thiệt mạng vì cuộc chiến do cộng sản Bắc Việt gây ra. Một cuộc chiến hoàn toàn vô ích và vô nghĩa, chỉ có lợi cho đảng cộng sản của họ và cho cộng sản quốc tế mà thôi; vì sau Thế Chiến Thứ Hai, tất cả các thuộc địa sẽ từ từ được thực dân trao trả lại chủ quyền và nền tự chủ - không cần tốn một viên đạn. Quân đội Pháp cũng sẽ phải rút về nước, Việt Nam sẽ được hưởng một nền độc lập tự do đúng nghĩa của nó. Nhưng cộng sản quốc tế lo ngại khi đó chủ quyền sẽ lọt vào tay chính phủ Quốc Gia cho nên họ đã sớm phát động phong trào kháng chiến chống Pháp ngụy tạo dưới tên Việt Minh để cướp chính quyền, để nhuộm đỏ miền Bắc trong chiến lược bành trướng chủ nghĩa cộng sản trong vùng Đông Nam Á của Nga Sô và Trung Cộng. Bất hạnh thay cho đất nước Việt Nam bị tan hoang dưới sự thống trị của đảng cộng sản. Tan hoang cả về tài nguyên vật chất lẫn các giá trị văn hóa đạo đức và nhân bản.


Sau 39 năm với bao nhiêu đau thương và đổ vỡ trên quê hương gây ra bởi sự cai trị rừng rú tùy tiện và độc tài của đảng cộng sản Bắc Việt, chủ nghĩa cộng sản đang đi đến bên bờ vực thẳm và đang tự hủy hoại, vì người dân đã vượt lên sự sợ hãi để can trường đứng lên đòi lại quyền sống bất chấp tù đầy khủng bố, và vì người cộng sản đã hết thời, không còn dùng những thủ thuật tuyên truyền để lừa dối được người dân nữa. Ánh sáng đang bắt đầu rọi chiếu đến quê hương chúng ta và ba triệu người đang sống tạm dung trên gần một trăm quốc gia trên thế giới đang chờ ngày tàn của bạo chúa để họ sẽ cùng nhau trở về quê hương xây dựng lại tất cả từ đống tro tàn.

Phạm Gia Đại