Bài này đã được viết vào năm 1977, đã đăng trên hai tờ báo ca Exryu Nhật: Trường Ca, Người Việt Tự Do, bút hiệu "Trịnh Khanh". Nhiều đoạn đã mất thời gian tính.
Quê Hương
"Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn
Nước tuôn trên đồng vuông vắn...
Nhạc Phạm Duy Bài Tình Hoài Hương"
Có lẽ một ngày nào đó, năm 2000 chẳng hạn, con người sẽ bị tận diệt, hoặc bằng một trận đại hồng thủy, hoặc một vụ động đất toàn diện, hay bằng những võ khí nguyên tử... Trái đất này sẽ nổ tung, hoặc chỉ còn là một hành tinh chết, tôi cũng không tha thiết với nó, và hơi thở của chính mình, bằng nỗi tha thiết với Việt Nam, một mảnh đất nhỏ, sát bờ đại dương, nơi đó, cách đây bao ngàn năm qua, tổ tiên tôi đã khai phá, và trải bao thời gian, máu, và nước mắt của đồng bào tôi đã thấm để gắn chặt sự sống, chết của một dân tộc với sự mất còn của từng con sông, ngọn đồi, tấc đất. Biết bao thăng trầm, buồn vui, đã hòa hợp cùng người và đất để thiêng liêng hóa chữ quê hương.
Quê hương không thể có trong một ngày, một đời, quê hương là tất cả, những gì đã có trong quá khứ, và những gì ở tương lai.
Quê hương tôi là vua Hùng dựng nước, là Sơn Tinh, Thủy Tinh, là Trần Hưng Ðạo, là tích trầu cau, là ngày tết, cây nêu, là những trận lụt miền Trung, là cơn gió heo may ngoài Bắc, là cái nắng cháy da miền Nam, là lời ca dao, là câu tục ngữ, là áo lụa Hà Ðông... Ðể tóm tắt tất cả những chữ "là" dài dòng đó, quê hương tôi là tất cả, hay ít nhất, là tất cả trong tôi.
Những năm đầu của quãng đời Trung Học, rủ nhau cùng ra ngồi dưới bóng mát hàng me, ăn đậu đỏ bánh loọc hay uống nước đá sia-rô, chúng tôi thường hay mơ về những giấc mộng viễn du, rời quê hương đi xa. Mặc kệ quần nghèo vá mông, và không quá hai đồng uống nước trong túi, đứa nào cũng mơ ra sông, để "biết mặt trùng dương, biết đời mênh mông, biết đời viển vông, biết ta hãi hùng...".
Chúng tôi say mê chuyện "Dế mèn phiêu lưu du ký" của Tô Hoài, hay những chuyện đường rừng của Lê văn Trương và cuốn sách "Vòng quanh thế giới trong 80 ngày" của Jules Vernes.
Vào những năm đó, tình hình chiến cuộc chưa lấy gì làm thảm khốc so với những năm 72-74, nhưng cũng đủ để dân thành đô hãi hùng bởi những địa danh Vũng Rô, Ðồng Xoài ...Một số đàn anh lớn trong xóm bọn tôi đã phải lên đường chiến đấu bảo vệ an ninh thôn xóm, thời của những anh chiến sĩ Cộng Hòa...
Nhưng chiến tranh lúc ấy còn quá xa, tụi con nít chúng tôi còn có tí thì giờ để thở, và để sống tuổi thiếu niên, những buổi trưa trốn nhà bơi ghe đi ăn trộm chuối, tổ chức rượt nhau bắn bì, lùng bắt địch như trong phim "la guerre des boutons". Tối về trải chiếu ngắm trăng, nghe ông già lối xóm nói Lục Vân Tiên, hay mở radio nghe Út Trà Ôn xuống giọng mùi mấy câu vọng cổ. Thỉnh thoảng có dịp, "tụi giặc nhỏ", lối xóm thân yêu đặt cho bọn tôi như vậy, còn chui vào đình coi hát cọp. Hồi đó, chưa có TiVi, bọn tôi bị ảnh hưởng nhiều bởi những tuồng hát, đẽo gươm gỗ, đóng Tiết Nhơn Qúy chinh đông, chạy cùng làng, khắp xóm. Nhưng dù vậy, tôi vẫn khoái nhất lúc được đóng vai làm thủy thủ trong những tuồng "tây", lênh đênh thật xa, với chiếc thuyền, cùng chiếc ống dòm dài và cây gươm, lùng bọn cướp bể treo cờ sọ, xương người. Mênh mông sóng nước, cuộc đời cứu khổn, phò nguy, thỉnh thoảng tàu cặp bến về thăm nhà, mang biếu lối xóm những món quà thật lạ...
Ngờ đâu, lớn lên, tôi lại được thực hiện mộng đi xa quê hương mà ngày bé thường mơ ước. Ra đi trong lòng nửa háo hức, nửa buồn rầu, chàng "thủy thủ" không bước lên tàu buồm, mà bước lên chiếc Boeing to lớn và lạ hoắc. Tôi đã rời xa quê hương từ dạo đó.
Sống kiếp lưu lạc nơi xứ lạ, tôi không có thì giờ để lùng những tên cướp bể, như những ngày xưa mơ ước. Ðem mồ hôi đổ trên xứ người, nhiều đêm, tôi mơ mình bé lại, ngồi trải chiếu ngắm trăng, hay xách gươm gỗ chạy cùng ngõ. Ðôi khi chờ xe điện ở một ga vắng, nhìn mưa hiu hắt, tôi lại mau chóng được về quê hương, quê hương dấu yêu của tôi, quê hương có nắng Sài Gòn, có dừa Mỹ Tho, có bưởi Biên Hòa, có khóm Bến Lức, có gia đình và bè bạn thân yêu.
Một ngày, nhân dịp đi xa, nửa đường xe bị trục trặc, tôi và một anh bạn phải ghé vào một tỉnh lẻ bên đường. Nghe nói trên đồi có người Việt Nam, hai thằng háo hức lên thăm. Trời tối, đường dốc, lại lạnh, sau cả giờ loay hoay hỏi thăm vô ích, tôi và anh bạn bắt đầu chán nản định trở về khách sạn, đi ngang qua một quán cơm, bụng đói, tính vô ăn, bỗng nghe văng vẳng tiếng ca vọng cổ miền Nam, cũng vẫn lại giọng trầm ấm của người danh ca miền đất Trà Ôn, nói làm sao cho hết được lòng cảm động và mừng rỡ lúc bấy giờ, trong cái lạnh của đêm đông miền núi xứ tuyết, hai kẻ xa quê hương cảm thấy thật gần gũi quê hương. Ðêm ấy, quanh chai rượu nóng, hai chúng tôi và chủ nhân chong đèn kể chuyện quê hương. Quê tôi, bấy giờ đang ngập chìm trong khói lửa chiến tranh, vào những năm đầu 70.
"Ly khách, ly khách con đường nhỏ
Chí lớn chẳng về bàn tay không ..."
Quê hương như giòng sông cái, từng con người như những nhánh sông con từ nguồn góp nước. Dù xa ngàn trùng, nhưng mạch quê hương vẫn nhảy đều trong mỗi con ngườị Tôi có một ý nghĩ táo tợn rằng, dù cho, trong một khoảng thời gian nào đó, con người có thể bận rộn quên mất quê hương, nhưng bao giờ, quê hương vẫn mãi như một cái nhân, luôn luôn tồn tại trong thầm kín của con người, vì nó gói trọn đủ mọi thứ tình: Mẫu tử, phụ tử, gia đình, bè bạn... và trong nhiều trường hợp, lẫn cả tình yêu đôi lứa. Dĩ nhiên, những con người đó phải sinh ra, và lên tại mảnh đất mẹ của họ.
Một con người chính trị có thể hoạch định một đường lối cho tập thể, tùy theo quan điểm của họ, tranh đấu để áp dụng lối nghĩ đó vào đời sống. Mỗi một người dân đều có quyền, và có bổn phận nghĩ tới quê hương, và một lãnh tụ có là gì đâu, nếu không phải chỉ là một người dân. Quê hương không bao giờ là sở hữu riêng của một cá nhân nào, hay đảng phái nào. Dù lãnh tụ có giỏi, có hay đến đâu, nước Pháp đã không là vật riêng của Napoléon, nước Ðức đã không là vật riêng của Hitler và đảng Quốc Xã... Mà nước Pháp là của người Pháp, nước Ðức của người Ðức và quê hương tôi phải là của người Việt Nam.
Bao năm qua, các nhà lãnh tụ miền Bắc đã quá độc đoán, đem đảng đặt trên quyền lợi quê hương, các nhà lãnh tụ miền Nam đầy nhu nhược, lệ thuộc ngoại bang. Máu và xương đã đổ vô ích, bao người trai anh hùng, tướng tá lỗi lạc hai miền bị chết không đâu, tài nguyên quốc gia bị thiêu hủy phí phạm.
Sau gần 30 năm, trong khi các quốc gia đang trên đà phát triển, tại quê hương tôi, kẻ chiến thắng Lê Duẩn, Phạm văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp đến miền Nam để nhìn những đống gạch vụn và những hố bom, mìm chằng chịt. Các lãnh tụ Cộng Sản bước lên đài vinh quang xây bằng xương máu anh em hai miền. Biết bao người phải rời bỏ quê hương, biết bao người bị cấm về quê hương. Hàng ngày, trên những chuyến xe điện ở NewYork, Tokyo, Paris... biết bao người Việt Nam ngậm ngùi chen lấn trong cuộc mưu sinh khó khăn, chiều về lầm lũi cô đơn nghĩ về thân phận của chính mình và quê hương khổ đau. Biết bao kẻ vô tội đang bị quằn quại chết dần trong những trường cải tạo. Quê hương nghèo vẫn nghèo, người dân càng khổ hơn. Chắc rằng người miền Bắc chẳng sung sướng gì trên sự chiến thắng của cuộc chiến mai mỉa vừa qua.
Quê hương ơi! Quê hương đâu cần những người con thiên tài chủ nghĩa, quê hương chỉ cần những người con hiền lành can đảm để xây đắp quê hương. Giờ đây cuộc chiến khốc liệt đã qua, nhưng những mưu đồ đen tối của Mỹ, Nga, Trung Cộng, Pháp, Nhật ... vẫn còn đó, đeo những cùm gông chủ nghĩa, quê hương tôi sẽ đi về đâu?
Và biết đến bao giờ đây, chúng tôi sẽ được về hóng cơn gió heo may lành lạnh ngoài Bắc, dạo chơi Hà Nội ba mươi sáu phố phường, phơi mình dưới nắng miền Nam, ăn cá nướng thơm miền Tây, và được êm đềm đóng góp sức lực cho Quê Hương, không sợ sệt, không bị quản thúc. Nhìn thế giới thanh bình, những người dân sung sướng, Quê Hương ơi, tôi mong thiết tha một ngày về, và tôi sẽ tranh đấu để có một ngày về. Tôi đốt niềm tin sáng trong tôi: Một ngày, hàng trăm ngàn chuyến tàu EXODUS sẽ vượt những đại dương về với quê hương.
Quê hương Việt Nam muôn đời của chúng ta
Trịnh Khanh (Phạm Thế Ðịnh)
-----------------------------------
(Jul, 1977)