Nói chung, ngoài việc cướp đoạt chánh quyền một cách bất hợp pháp bằng bạo lực cách mạng để được thụ hưởng giàu sang phú quý với một nếp sống xa hoa vương giả như vua chúa dưới thời phong kiến, đảng Cộng Sản Việt Nam đã gặt hái nhiều thất bại hơn thành công. Ngược dòng lịch sử cận đại, người Việt trong và ngoài nước hãy khách quan và trung thực tìm hiểu giai đoạn thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam dày đặc dối trá.
Ai thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam? Chính Đệ tam Quốc tế Cộng sản đã tài trợ và thành lập đảng Cộng sản Việt Nam sau khi cho ra đời đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 tại Tours và đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1921 tại Thượng Hải để bành trướng chủ nghĩa cộng sản tại Tây Âu và Á châu. Theo chỉ thị của Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô Josef Stalin, Nguyễn Tất Thành, bí danh Nguyễn Ái Quốc (bút danh của Nhóm Ngũ Long tại Paris) từ Thái Lan đến Quảng Châu rồi qua Hong Kong tham dự việc thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3-2-1930 tại một sân đá banh.Tham dự buổi họp thành lập Đảng có 6 người Việt (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trình Đình Cữu, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Hồng Sơn và Lê Tán Anh) và một đại biểu Quốc tế Cộng sản. Tài liệu cộng sản Việt Nam không nói tên của người đại biểu Quốc tế Cộng sản nhưng các tư liệu tham khảo cho biết nhân vật ngoại quốc nầy tên Hồ Tập Chương, phái viên Cục Đông phương Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đều là cán bộ của Cộng sản Quốc tế , thành viên Ban Trù bị thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đã từng làm việc chung với nhau từ năm 1929 đến khi cả hai bị bắt giam năm 1931: Nguyễn Ái Quốc bị Cảnh Sát Anh bắt giam tại Hong Kong, Hồ Tập Chương bị Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ tại Quảng Châu, một thành phố lớn của tỉnh Quảng Đông.
Hồ Tập Chương là ai?
Hồ Tập Chương là người sắc tộc Hakka (Hẹ) sanh năm 1903 tại Miêu Lật, địa khu Đồng La, đảo Đài Loan. Tốt nghiệp Đại học Công nghiệp Đài Bắc, Hồ Tập Chương là một người uyên bác Hán văn, nói lưu loát tiếng Quảng Đông và tiếng Hẹ, thông thạo Nhật ngữ và Anh ngữ, yêu thích phiêu lưu,mạo hiểm và vân du giang hồ, có năng khiếu thích ứng với ngành gián điệp. Năm 1931, sau khi bị Trung Hoa Quốc dân Đảng bắt giữ tại Quảng Châu vì bị tình nghi là cán bộ cộng sản, Hồ Tập Chương đã được Lâm Y Lan, nữ đảng viên cộng sản Trung Quốc dưới quyền của Đào Chú, giải cứu, đưa đến thành phố cảng Hạ Môn, tỉnh Phước Kiến, rồi chuyển về Quảng Tây để khai thác hầm mỏ và hoạt động cho Cộng sản Trung Quốc tại biên giới Hoa-Việt năm 1932. Vì vậy, thành phố Mông Cáy, giáp giới Quảng Tây, rất quen thuộc đối với ông ta. Kể từ thời điểm nầy, Hồ Tập Chương chấm dứt liên lạc với gia đình, bỏ lại vợ con ở Đài Loan. Hồ Tập Chương kể như thất tung trong thời chiến loạn. Trên một giấy thông hành (passport) có dán ảnh Hồ Tập Chương do Cảnh Sát Anh tịch thu năm 1931 tại nhà của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tập Chương đổi tên là Hồ Chí Minh.
Năm 1933, sau một thời gian ẩn trú tại Thái Lan, Hồ Tập Chương trở về Hạ Môn, đáp tàu thủy đi Thương Hải trên đường đi Moscow. Tại đây, Hồ tập Chương được Vera Vasilieva, Chủ nhiệm Quốc tế Cộng sản phụ trách Việt Nam, bố trí cho học tập tại Học viện Lenin trong 5 năm (1933-1938) để cải tạo thân phận thành một con người khác. Trong thời gian 5 năm cải tạo tại Moscow, Hồ Tập Chương đã học tiếng Việt và tiếng Pháp, trau dồi Nga ngữ để đóng trọn vai trò của Nguyễn Ái Quốc đã qua đời trong mùa hè năm 1932 vì bịnh lao phổi trầm trọng.
Trở về Trung Quốc
Năm 1938, sau 5 năm học tập cải tạo tại Moscow, Hồ Tập Chương trở về Diên An, căn cứ địa của đảng Cộng Sản Trung Quốc dưới bí danh Hồ Quang. Với quân hàm Thiếu tá, Hồ Quang được phái đến phục vụ trong Tập đoàn quân 18 Bát lộ quân của Thống chế Diệp Kiếm Anh hoạt động trong tỉnh Quảng Tây.
Năm 2014, chánh quyền Trung Quốc công bố một bí mật lịch sử đã được giấu kín trên nửa thế kỷ: Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Thiếu tá Hồ Quang của Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc.
Địa bàn hoạt động của Hồ Tập Chương tức Hồ Quang là tỉnh Quảng Tây. Các thành phố Nam Ninh, Quế Lâm và Liểu Châu của tỉnh Quảng Tây cũng như vùng biên giới Hoa-Việt quá quen thuộc đối với ông ta. Từ Quảng Tây, Hồ Quang được đảng Cộng Sản Trung Quốc đặc phái qua Việt Nam thi hành một sứ mạng đặc biệt 2 năm sau khi từ Moscow trở về Diên An. Để hỗ trợ Hồ Quang hoàn thành nhiệm vụ, đảng Cộng Sản Trung Quốc cung cấp cho ông ta một số võ khí và cán binh bảo vệ cẩn mật hang Pác Bó trong tỉnh Cao Bằng.
Nhưng theo các tài liệu dối trá của đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân vật từ Trung Quốc trở về Việt Nam năm 1940 và ẩn trốn trong hang Pác Bó là Nguyễn Ái Quốc. Nhân vật nầy cũng có thói quen thường qua lại biên giới Hoa-Việt để đến tỉnh Quảng Tây. Tại đây, ông ta bị tướng Trương Phát Khuê của Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ năm 1942 vì bị tình nghi là gián điệp cộng sản Tàu. Năm 1943, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do và trở về Pác Bó với tên đổi mới là Hồ Chí Minh, tên của Hồ Tập Chương từ năm 1931. Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc là tác giả tập thơ Nhật Ký Trong Tù sáng tác trong thời gian bị tướng Trương Phát Khuê giam cầm tại Quảng Tây (1942-1943)
Vén màn bí mật
Để giải mã một bí ẩn lịch sử đã được giấu kín từ năm 1940, người Việt chúng ta cần phải đặt tin tưởng vào sự xác nhận trên giấy trắng mực đen của chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một bài viết tháng 1 năm 1949 tựa đề Đảng Ta đăng trên Tạp Chí Sinh Hoạt Nội Bộ dưới bút danh Trần Thắng Lợi, nguyên văn như sau:
“Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng. Trong số 7,8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (tức Hồ Chí Minh), nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cữu, đồng chí Tán Anh (Lê Tán Anh) và vài đồng chí nữa đã oanh liệt hy sinh cho đảng và cho dân tộc lâu trước Cách Mạng tháng 8.” (Xem Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 5, trang 547).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết ra một sự thật: Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau. Ông ta viết bài Đảng Ta trước khi quyển sách của Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) tựa đề Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch viết bằng Hán văn được in và xuất bản tại Thượng Hải năm 1949, dịch ra tiếng Pháp và xuất bản tại Paris năm 1950, dịch ra tiếng Việt năm 1951 để từ đó đảng Cộng Sản Việt Nam lập luận rằng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc!
Tại sao quyển sách của Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) lại viết bằng Hán văn, in và xuất bản trước tiên bên Tàu trong khi Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, người Việt? Phải chăng quyển sách nầy do một người Tàu (Hồ Tập Chương) viết bằng Hán văn và phải được đảng Cộng Sản Trung Quốc kiểm duyệt trước khi xuất bản tại Thượng Hải năm 1949? Hơn nữa, Nguyễn Ái Quốc chỉ có trình độ sơ cấp về Hán văn, nhân vật nầy nếu còn sống hoàn toàn không có khả năng viết một quyển sách bằng Hán văn. Mặt khác, nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, ông ta cũng không có đủ vốn liếng Hán văn để trước tác tập thơ Nhật Ký Trong Tùgồm có 134 bài thơ siêu tuyệt. Nguyễn Ái Quốc cũng không thể thông thạo ngôn ngữ riêng biệt của sắc tộc Hakka.
Trái lại, Hồ Tập Chương rất uyên bác về Hán văn. Trình độ cao của Hồ Tập Chương về Hán văn đã thể hiện rõ rệt trong tập thơ Nhật Ký Trong Tù do ông ta viết trong thời gian lao lý (1942-1943) tại Quảng Tây, sử dụng Hán văn trác tuyệt và các thành ngữ đặc thù của sắc tộc Hakka (Hẹ).
Sau một thời gian dài tuyên truyền gian dối về lý lịch của Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải công nhận một sự thật lịch sử: Cục Văn Thư và Lưu Trử của Cộng Sản Việt Nam đã chánh thức công bố:
Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc.
(Veb. Cục Văn thư và Lưu trữ Việt Nam)
Nói tóm lại, trong thời gian 3 thập niên từ 1940 (năm Hồ Chí Minh về hang Pác Bó) đến 1969 (năm Hồ Chí Minh qua đời), đảng Cộng Sản Việt Nam đã không phát hiện lãnh tụ tối cao của họ là một người Tàu mà còn tôn vinh người nầy là Cha Già của dân tộc Việt Nam, thờ phượng ông ta tại lăng Ba Đình, trong các chùa chiền và tư gia của đồng bào trong nước. Đến ngày nay, Cộng Sản Việt Nam mới đành phải công nhận: Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Trung Cộng, một người Tàu. Đó là một sự xấu hỗ và thất bại to lớn đầu tiên của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Mùa Xuân California, 2015
Thẩm phán Phạm Đình Hưng