**************************************************************************************************************************************
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : pttpgqt@gmail.com
Web : http://www.pttpgqt.net - Facebook: https://www.facebook.com/queme.net
**************************************************************************************************************************************
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : pttpgqt@gmail.com
Web : http://www.pttpgqt.net - Facebook: https://www.facebook.com/queme.net
**************************************************************************************************************************************
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 28.4.2015
Dân biểu Quốc hội Châu Âu Ramon Tremosa I Bacells và Bà Therese Jebsen thuộc Sáng hội Rafto Vương quốc Na Uy nói về Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế
PARIS, ngày 28.4.2015 (PTTPGQT) - Vừa qua một số Cư sĩ và một Thượng toạ ẩn anh tại thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ, đã có nhã ý và phát tâm đứng ra cùng với Sáng hội Phạm Gia Bình tổ chức buổi Tiệc gây quỹ yểm trợ Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế.
Do sự kiện vấn đề truyền thông ngày càng phải phát triển. Đặc biệt cuộc vận động quốc tế Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn đòi hỏi nhiều phương tiện để chu toàn, mà nhân sự cũng như tài chánh của Phòng Thông tin Quốc tế hiện quá eo hẹp.
Đặc biệt tại Tiệc Gây Quỹ còn có sự đóng góp phát biểu của hai nhân vật quốc tề, đó là Dân biểu Quốc hội Châu Âu, ông Ramon Tremosa i Bacellsđến từ Brussels, và bà Therese Jebsen, Đại diện Sáng hội Rafto ở Vương quốc Na Uy.
Chúng tôi vừa phát hành các YouTube về buổi Tiệc Gây Quỹ này, xin mời quý bạn đọc vào xem qua năm YouTube sau đây :
Chúng tôi cũng xin giới thiệu dưới đây 2 bài phát biểu nói trên dịch ra tiếng Việt :
BÀI PHÁT BIỂU
của Dân biểu Quốc hội Châu ÂuRamon TREMOSA i BALCELLS
Bạn Võ Văn Ái thân mến,
Bạn Ỷ Lan Penelope thân mến
Quý Bạn Dân chủ thân mến,
Bạn Ỷ Lan Penelope thân mến
Quý Bạn Dân chủ thân mến,
Tôi vô cùng hân hạnh được có mặt hôm nay để nói đôi lời ngắn ngủi tại buổi tiệc Gây Quỹ hỗ trợ Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam do anh Võ Văn Ái làm Chủ tịch, cùng những công trình vận động cho dân chủ và nhân quyền Việt Nam của Uỷ ban.
Đa số quý vị ở đây chắc hẳn không biết tôi là ai. Tôi là người được bầu làm Đại biểu Quốc hội Châu Âu. Gốc người Catalan đến từ Barcelona.
Là người Catalan tôi rất cảm thông với Quyền của người thiểu số và nhân quyền nói chung. Trải qua nhiều năm, nhân dân và văn hoá Catalan bị chính quyền trung ương Madrid đàn áp cho tới khi thể chế dân chủ xuất hiện.
Mãi đến ngày hôm nay, đôi khi người công dân Catalan vẫn chưa cảm thấy được tôn trọng trên chính ngay xứ sở Tây Ban Nha của họ. Văn hoá và bản sắc họ vẫn chưa được công nhận.
Những yếu tố này khiến tôi hết sức quan tâm tới Pháp quyền và sự tôn trọng dân chủ trong toàn thế giới. Đặc biệt, tôi hết sức đồng cảm với nhân dân Tây Tạng và nhân dân Uighurs tại Trung quốc.
Tôi khâm phục anh Sam Rainsy và phong trào đối lập Cam-bốt cũng như tôi khâm phục công tác gian nan của anh Võ Văn Ái và Penelope (mà tôi biết còn có tên Ỷ Lan) trong nỗ lực kiên trì đấu tranh cho dân chủ và tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam.
Tôi gặp anh Võ Văn Ái qua những chiến dịch và hoạt động của tôi tại Quốc hội Châu Âu để hậu thuẫn cho nhân quyền, tự do tôn giáo và dân chủ Việt Nam.
Tôi là thành viên của Phái đoàn liên hệ Trung quốc và Uỷ ban mậu dịch của Quốc hội Châu Âu.
Trong quá khứ, tôi đã từng đặt nhiều câu hỏi viết tại Quốc hội Châu Âu về Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, về tự do tôn giáo và những vấn đề khác. Tôi đã ký tên hậu thuẫn Đức Tăng Thống làm ứng viên Giải Nobel Hoà bình và Giải Sakarov của Quốc hội Châu Âu. Tôi cũng tham gia chiến dịch của các bạn năm 2013 yểm trợ cho các “Bloggers sau chấn song nhà tù”.
Tôi cũng vận động cấp kỳ để đưa ra một Nghị quyết Khẩn tháng Tư năm 2013 và đã dược các chính đảng hậu thuẫn. Tôi luôn sẵn sàng dấn thân hơn nữa cho mục tiêu công bằng ! Tôi tin chắc rằng cuối cùng các bạn sẽ thành công vì các bạn đang đấu tranh cho chính nghĩa.
Công trình của các bạn rất quan trọng !
Nếu không có những người như anh Võ Văn Ái, Ỷ Lan và những nhóm như Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam, thì Quốc hội Châu Âu sẽ chẳng có bao nhiêu thông tin về Việt Nam.
Tôi chẳng biết gì nhiều về Việt Nam cho đến khi gặp các bạn.
Là Đại biểu Quốc hội Châu Âu, tôi có thể đóng góp nhiều để hậu thuẫn Việt Nam, nhưng phải có trong tay những thông tin kịp thời và tín nhiệm. Anh Võ Văn Ái và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam là nhóm duy nhất làm việc này. Đó là lý do vì sao điều vô cùng quan trọng cho người Việt ở Hoa Kỳ và Châu Âu nên hậu thuẫn anh Võ Văn Ái và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam để họ có phương tiện hữu hiệu hơn, qua đó, giúp tôi và những chính trị gia khác đóng góp tốt đẹp hơn.
Công tác thông tin vô cùng quan trọng cho Quốc hội Châu Âu và các định chế tại Liên Âu.
Hiện nay, Liên Âu là nhà tài trợ lớn nhất, và là đối tác lớn thứ hai đối với Việt Nam. Liên Âu đang thương thảo Hiệp ước Mậu dịch Tự do với Việt Nam, là điều sẽ mang lại nguồn tài trợ lợi ích cho Việt Nam. Có thể Hiệp ước này sẽ ký kết trong năm 2015. Trước khi Hiệp ước Mậu dịch Tự do được áp dụng cần phải được Quốc hội Châu Âu thông qua.
Điều này có nghĩa rằng Quốc hội Châu Âu có tiếng nói quan trọng, và có thể áp lực yêu sách Việt Nam tôn trọng các nghĩa vụ nhân quyền nếu Việt Nam muốn có những quan hệ mậu dịch tốt với Liên Âu.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng các bạn không nên sợ hãi một hiệp ước mậu dịch hợp lý. Mở cửa kinh tế không chỉ mang lại lợi lộc cho kinh tế mà thôi. Lấy ví dụ nước Tây Ban Nha thập niên 1960, khi chế độ Độc tài lấy quyết định mở cửa kinh tế cho mậu dịch nước ngoài, Tây Ban Nha bắt đầu nhập khẩu không chỉ hàng hoá, mà còn mang lại nhiều ý tưởng. Là điều mang lại những quan điểm mới mẽ và đa dạng cho xã hội, đồng thời cổ vũ và đẩy mạnh tiến trình dân chủ hoá cho toàn khối nhân dân.
Nếu các đại biểu Quốc hội Châu Âu và những phát ngôn của xã hội dân sự cùng chung nhau lên tiếng, chúng ta có thể tạo ra áp lực. Nếu khôngcùng nhau làm như thế, thì các chính quyền và giới kinh doanh vận động hành lang sẽ xung kích để ký kết những hiệp ước chẳng quan tâm gì đến nhân quyền. Đây là vấn đề cốt tuỷ phải nói ra để biến một hiệp ước thành hợp lý và đúng đắn.
Cũng vậy, Quốc hội Châu Âu có thể giúp — chẳng riêng lĩnh vực mậu dịch — mà còn giúp đỡ trả tự do cho tù nhân chính trị tại Việt Nam. Chúng tôi có thể ra tuyên ngôn, Nghị quyết, và tố cáo vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, là điều giúp gây áp lực lên nhà cầm quyền Việt Nam. Còn có cả đối thoại nhân quyền. Có rất nhiều việc mà người dân biểu Quốc hội Châu Âu có thể làm, nếu được các bạn cung cấp thông tin cho chúng tôi — biết đâu chúng tôi không thể gửi một phái đoàn dân biểu Quốc hội Châu Âu sang thăm Việt Nam.
Tôi thật tình sung sướng được có mặt hôm nay nói đôi lời tại buổi tiệc.
Xin cám ơn các bạn đã mời tôi, và tôi sẵn sàng giúp cho tiếng nói của các bạn được Quốc hội Châu Âu lắng nghe.
Xin hãy dũng cảm và cầu chúc cuộc đấu tranh của các bạn sớm thành công !
Ramon Tremosa I Balcells
Dân biểu Catalan Quốc hội Châu Âu,
Đảng Tự do Dân chủ Châu Âu
Dân biểu Catalan Quốc hội Châu Âu,
Đảng Tự do Dân chủ Châu Âu
Thông Điệp củaBà THERESE JEBSEN
Sáng Hội Rafto, Vương Quốc Na Uy
Các Bạn Việt Nam thân mến,
Các Bạn trong Phong trào dân chủ thân mến,
Các Bạn trong Phong trào dân chủ thân mến,
Tôi vô cùng hân hạnh được mời nói hôm nay tại buổi tiệc quan trọng này.
Thật tuyệt vời để biết rằng các bạn cùng hội họp nhau tại thành phố Houston để hậu thuẫn những người mà chúng ta ngưỡng mộ nhất. Anh Võ Văn Ái và chị Ỷ Lan Penelope Faulkner thuộc Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, là những người thân thiết và quan trọng nhất của chúng tôi trong liên minh quốc tế đấu tranh cho công lý, tự do tôn giáo và nhân phẩm. Chúng ta vô cùng biết ơn cho những nỗ lực không mệt mỏi của hai người để chuyển biến ôn hoà sang dân chủ tại Việt Nam hay bất cứ đâu.
Giải Quốc tế của Giáo sư Thorolf Rafto được trao hàng năm cho những người Bảo vệ Nhân quyền kiệt xuất đã phải trả giá quá đắt bằng sự hy sinh thân mạng họ cho tự do và công lý. Những khôi nguyên nhận giải của chúng tôi gồm có Aung San Suu Kyi nước Miến Điện, Shirin Ebadi nước Iran, Ramos Horta nước Đông Timor, và Kim Dae-Jung nước Nam Hàn. Sau đó các vị này đã nhận được Giải Nobel Hoà Bình.
Năm 2006, Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto đã được trao cho Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ. Ngài là một ví dụ sáng chói cho sự dũng cảm của tinh thần, và là tiếng nói mạnh mẽ cho tự do và nhân phẩm. Chúng tôi đã vô cùng kính ngưỡng trước sự dấn thân trường kỳ của ngài, mặc bao gánh nặng ngài phải cưu mang trong bao nhiêu năm trường bị tướt đoạt mọi tự do cơ bản. Ngày nay ngài Thích Quảng Độ vẫn tiếp tục bị quản chế ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam bị siết chặt trong vòng vây của chính quyền, còn thế giới thì nhìn Việt Nam như những cơ hội làm ăn, chốn thư nhàn, nơi vui thú.
Ngài Thích Quảng Độ bị công an kiểm soát thường trực, không được quyền tự do đi lại, mọi liên lạc bị phong toả. Năm 2006, mặc bao áp lực của chính phủ Na Uy, Ngài không được sang Na Uy lãnh Giải Rafto. Năm sau đó, tôi đến Việt Nam mang theo tấm bằng tưởng lệ, tôi liền bị công an chận bắt khi mới bước vào Thanh Minh Thiền viện. Họ bó buộc tôi viết lời tuyên bố hứa từ nay sẽ không bao giờ trở lại gặp Ngài Thích Quảng Độ nữa. Hiển nhiên, tôi không thể cho phép mình làm một việc như thế. Ngài Thích Quảng Độ luôn luôn đứng vững như cột trụ tinh thần, như một biểu tượng cho bất cứ ai tha thiết với nhân phẩm.
Hoàn cảnh của ngài Thích Quảng Độ đã quá đau khổ, tồi tệ, thế nhưng hoàn cảnh ngài còn tồi tệ hơn, nếu không có những nỗ lực của anh Võ Văn Ái, vị Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam tại Paris. Chung sức với Ỷ Lan Penelope Faulkner, anh Ái đã phụng hiến mấy chục năm trời vận động cho việc trả tự do cho ngài Thích Quảng Độ.
Sáng hội Rafto làm quen với anh Võ Văn Ái kể từ khi anh mang lại cho chúng tôi những thông tin về trường hợp ngài Thích Quảng Độ năm 2005. Tại lễ trao Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto và Hội nghị Quốc tế do chúng tôi tổ chức năm 2006, anh Võ Văn Ái thay mặt cho Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ nhận giải, trong cung cách tuyệt hảo và vô cùng xúc động.
Kiên trì hoạt động không ngưng nghỉ để giữ vững luồng sáng chiếu soi vào hoàn cảnh ngài Thích Quảng Độ và những nhà hoạt động cho dân chủ tại Việt Nam, anh Võ Văn Ái và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam đã làm vang vọng những tiếng nói của không biết bao người không được tự do lên tiếng.
Sáng hội Rafto tại Vương quốc Na Uy sẽ tiếp tục hậu thuẫn cho dân chủ tại Việt Nam. Chúng tôi sẽ vận động trả tự do vô điều kiện cho ngài Thích Quảng Độ, và chúng tôi sẽ thực hiện chung dự án với Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam.
Chúng tôi xin khuyến khích các bạn, những bạn trẻ ở hải ngoại, hãy tham gia tích cực vào những phong trào dân chủ và tự do. Thực hiện việc này bằng cách hậu thuẫn anh Võ Văn Ái, chị Ỷ Lan Penelope Faulkner và những người cộng sự gian nan của anh chị. Bằng việc ủng hộ Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, các bạn sẽ góp sức vào việc thực hiện các hoạt động. Ví dụ như việc huấn luyện giới trẻ Việt Nam về nhân quyền, ủng hộ, vận động quốc tế ở cấp cao, sản xuất và cung cấp tài liệu cho những tổ chức Phi chính phủ bảo vệ nhân quyền, như Ân xá Quốc tế, Human Rights Watch và Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền.
Xin các bạn hãy cộng tác với Sáng hội Rafto để hậu thuẫn Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, anh Võ Văn Ái, chị Ỷ Lan Penelope Faulkner cùng những cộng tác viên trong tổ chức của anh chị để duy trì áp lực lên chính quyền Việt Nam.
Therese Jebsen
Sáng hội Rafto, Vương quốc Na Uy
Sáng hội Rafto, Vương quốc Na Uy
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 28.4.2015
Ba chương trình “Ký Ức 40 Năm” về GHPGVNTN trên Đài Á Châu Tự Do
PARIS, ngày 28.4.2015 (PTTPGQT) - Trong chương trình “40 Năm Ký ức” nhân bốn mươi năm Ngày 30/4/2015, Đài Á Châu Tự Do đã làm ba chương trình về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phải chung chịu chủ trương tiêu diệt tôn giáo của ý thức hệ Mác-Lênin sau 40 năm dưới chế độ Cộng sản.
Qua tiêu đề “Cuộc đàn áp quy mô” chương trình thứ nhất được phát sóng về Việt Nam vào lúc 21 giờ tối ngày thứ hai 27/4/2015. Phần hai của Cuộc đàn áp quy mô được phát sóng tiếp vào lúc 6 giờ 30 sáng thứ ba 28/4/2015.
Dù sơ lược và ngắn, nhưng tóm gọn đầy đủ thực chất của một cuộc đàn áp có chủ trương và kế hoạch của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm tiêu diệt Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt điều mà 40 năm qua chưa ai từng được nghe sự nhận định và tố giác cuộc đàn áp của cộng sản qua chính tiếng nói của Đức Cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu phát biểu từ chùa Linh Mụ Huế cuối năm 1978 ; và tố giác tính chất “pháp lý” phi pháp của Nhà nước Cộng sản khi cho dựng lên tổ chức Phật giáo làm công cụ cho Đảng, qua lời phát biểu đanh thép của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tại chùa Linh Mụ thượng tuần tháng 5 năm 1992.
Thật là một tài liệu quý mà nhờ Đài Á Châu Tự Do chúng ta nghe được. Xin mời quý độc giả vào nghe 2 chương trình nói trên tại :
hoặc tải xuống : http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/scale-of-a-crackdown-yl-04272015154522.html/04272015-kyuc-yl.mp3/download.html
Chương trình thứ ba, là cuộc phỏng vấn Đức Đương Kim Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ về suy nghĩ của Ngài sau 40 năm Cộng sản.
Sau đây là bài chép lại 2 chương trình nói trên lấy từ Trang nhà Đài Á Châu Tự Do :
Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 30/4
Ỷ Lan, Phóng viên RFA, Paris - 2015-04-27
Từ trái sang phải : HT Thích Quảng Độ, Nhật Thường, Thích Nhật Ban, Đồng Ngọc, Thích Trí Lực, Thích Không Tánh tại TAND TPHCM tháng 8 năm 1995 (Photo courtesy of lehienduc.blogspot.com)
|
Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời tại Saigon ngày 4 tháng giêng 1964, sau cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng năm 63. Vì trước đó, Dụ số 10 của Pháp bó buộc phải hoạt động theo quy chế Hiệp hội.
Kể từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn áp Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bắt đầu theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, khiến Phật giáo miền Bắc bị tiêu vong. Nay đem thực hiện tại Miền Nam.
Cuối tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá Đạo đã có văn thư phản đối Chủ tịch Cách Mạng Lâm thời về việc đập phá các tượng Phật lộ thiên.
Nhiều hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v…, hàng chục nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại Cải tạo.
Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Tình trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục“. Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp GHPGVNTN.
Tình trạng đàn áp có chủ trương và chính sách này, không ai lên tiếng rõ hơn Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu Thân 68, ngài bị cộng sản bắt đưa lên rừng rồi đưa ra Hà Nội áp lực tuyên truyền cho chế độ, nhằm đánh lừa dư luận quốc tế là Phật giáo ủng hộ Bắc Việt. Thế nhưng, trở về lại miền Nam, ngài từ nhiệm tất cả các chức vụ mà Hà Nội gán cho, lại còn tố cáo đàn áp Phật giáo và thảm sát cố Hoà thượng Thích Thiện Minh. Sau đây là tiếng Ngài qua một băng thu âm, được đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ tại Paris :
“Từ khi giải phóng đến nay, Phật giáo đồ chúng tôi bị bao nhiêu khổ đau tan tác. Đi bất cứ đâu, đạo khác thì chúng tôi không biết, chớ về gặp các nhà chùa Phật giáo, cán bộ, bộ đội phát biểu “Hòa bình Độc lập rồi, tu mà làm gì nữa ? Tuân thủ thờ Cách mạng hơn là thờ Phật“.
“Bắt đầu từ đó, sự vận động, khủng bố không cho họ được làm lễ. Phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột, Biện Hồ, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Quảng Ngãi… Bộ đội cột giây lên kéo xuống, đập vỡ tan hết.
“Sau đây còn bắt các vị tu sĩ lấy lý do mấy ông Sư đó phản động theo CIA, theo Mỹ, theo Nguỵ. Rồi lần lượt bắt cho đến các vị lãnh đạo trong Viện Hoá Đạo nữa, Thượng toạ Huyền Quang, Thượng toạ Quảng Độ, rồi đến bắt Thượng toạ Thiện Minh nữa, để Thiện Minh chết nữa.
“Thiện Minh không có tội chi hết, thì tại sao chính phủ làm cái việc lạ lùng hết sức. Đi bắt tội người không có tội chi hết là Thiện Minh mà lại dung tha cho người có tội là cơ quan. Tôi thì không biết rõ luật quốc tế lắm. Nhưng tôi đoán chắc rằng, luật quốc tế không cho phép để cho người bị bắt chết trong trại giam. Mà đây Thiện Minh đã chết trong trại giam. Cơ quan nói Thiện Minh chết vì xuất huyết não. Tôi có thể kết luận, Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì bàn tay tội ác chính trong cơ quan tạo ra. Là bởi được tin Thiện Minh chết, Viện Hoá Đạo về liền, thấy các ông bỏ trong hòm mà liệm rồi, chỉ chừa cái mặt. Viện Hoá Đạo xin đem về chôn cất, các ông không cho.
“Tại sao vậy ? Đây thấy rõ ràng quá. Rõ ràng như hai với hai là bốn. Là trong người của Thiện Minh đầy cả thương tích. Muốn che đậy thương tích đó, muốn che đậy lấp liếm cái việc làm của mình, bằng cách bỏ trong hòm liệm đi. Bởi vì sợ người ta thấy những cái vết thương mà các ông đã đánh đập.
“Là một công dân, tôi không thể để cho cơ quan làm những việc bất chính như vậy. Tôi xin nhắc lại ba điều yêu cầu :
“Một là yêu cầu chánh phủ trả tự do cho tất cả các tu sĩ bị bắt giam cầm đã lâu mà không can án ;
“Thứ hai là đưa cái chết của Thượng toạ Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết ;
“Thứ ba phải chấm dứt tình trạng khủng bố các tín đồ ở các địa phương“.
Ngày 16-4-1977, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo kêu gọi Phật tử Saigon đấu tranh chống lại GHPGVNTN. Thông báo cho rằng, “trong giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phái Ấn Quang có nhiều người vốn có mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cọng sản” (…) “Số này đã thao túng Giáo hội âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước”. Thông báo còn hăm doạ ra tay đàn áp.
Hăm doạ biến thành sự thật, bảy vị lãnh đạo Viện Hoá Đạo bị bắt giam. Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giam 20 tháng, nhờ áp lực quốc tế mới được thả nhưng bị quản chế. Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết tại Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Saigon, như Hoà thượng Đôn Hậu tố giác.
Suốt 5 năm đàn áp, khủng bố, nhưng không thành công tiêu diệt GHPGVNTN. Năm 1981, nhà cầm quyền Cộng sản chuyển qua chiêu bài mới, gọi là“Thống nhất Phật giáo“, thành lập “Hội Phật giáo Việt Nam” tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4-11 để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước. Ép buộc Tăng Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN phải gia nhập.
Hoà thượng Quảng Độ uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men
cho Dân oan trước tiền đình Quốc hội II ở Saigon |
Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân Vận chỉ thị cho ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo vận, thực hiện cuộc Thống nhất Phật giáo này. Ông giải thích cho ông Hiếu vì sao phải dẹp bỏ GHPGVNTN như sau :
“Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam”.
Năm 1994, hối hận việc làm sai lạc của mình, ông cho phát hành tập sách “Thống nhất Phật giáo” nói lên tất cả sự thật và tiết lộ :
“Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Kể từ đó, GHPGVNTN bị đưa ra ngoài vòng pháp luật, dù Nhà nước không có văn kiện nào chính thức giải thể. Một cuộc đàn áp mới sắp khai trương.
Vài tháng sau Giáo hội Phật giáo nhà nước ra đời tại Hà Nội, ngày 24-2-1982, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định trục xuất hai Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ về quản chế tại quê quán Quảng Ngãi và Thái Bình, không qua sự xét xử của toà án. Ngày 7-7 cùng năm, cưỡng chiếm chùa Ấn Quang là trụ sở của GHPGVNTN. Toàn bộ tư liệu, hồ sơ của Viện Hoá Đạo bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.
Năm 1991, Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế. Nhà nước muốn lợi dụng tang lễ này tuyên truyền chính trị cho Đảng. Nhưng Di chúc Ngài ngăn cấm không tổ chức rầm rộ, không đọc điếu văn, ca tụng, v.v… Nên 50 Tăng Ni tuyệt thực phản đối tại chùa Linh Mụ. Có vị đòi tự thiêu. Ngài để lại khuôn dấu Giáo hội và trao quyền cho hai Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN để phục hồi quyền pháp lý cho Giáo hội. Mặc dù bị công an phong toả, cấm đoán, tại lễ tang, Hoà thượng Huyền Quang dõng dạc tuyên bố trước Linh đài quyết tâm thực hiện Di chúc giao phó :
“Pháp lý là cái gì ? Giấy tờ chỉ được viết ra cho một tổ chức tân lập, còn Giáo hội ta đã có mặt trên dải đất này 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý. Trần đã chấp nhận Phật giáo.
“Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm truyền đạo trên dải đất Việt Nam này. Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo hội.
“Như vậy Pháp lý có thể cho ra và có thể thu lại. Vậy cho nên đừng đặt vấn đề pháp lý của thời đại, mà phải đặt lịch sử truyền đạo và sự chấp nhận của dân chúng Phật tử“.
Trước sự bùng dậy của khối Phật giáo đồ sau tang lễ, tài liệu Tuyệt Mật của Bộ Nội vụ viết ngày 18-8-1992 chỉ thị 5 biện pháp đấu tranh chống khối Phật giáo Thống Nhất, đặc biệt là phân hoá cao hàng ngũ giáo sĩ ; “cắt đứt chân tay” với số cực đoan chống đối ; và thâm nhập đặc tình trong Tăng tín đồ Phật giáo.
Vì thực hiện và phổ biến Di chúc Ngài Đôn Hậu, chư Tăng chùa Linh Mụ bị đàn áp dữ dội, đưa tới cuộc biểu tình bốn mươi nghìn Phật tử Huế xuống đường ngày 24-5-1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất chưa hề có dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị “Diễn biến Hoà bình” ở Hải phòng ngày 26.6 cùng năm, Tướng Đặng Vũ Hiệp đánh giá cuộc biểu tình của Phật tử Huế có “nguy cơ mất nước“.
Sự kiện hi hữu xẩy ra là ngày 2-4-2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Hoà thượng Thích Huyền Quang, nhân dịp ngài ra Hà Nội giải phẫu khối u ở mặt. Một thủ tướng tiếp một tù nhân ! Thủ tướng xin Hòa thượng hỉ xả cho chuyện đã qua, vì cán bộ cấp địa phương làm sai. Nhiều nhà quan sát tưởng rằng vấn đề Phật giáo được lắng yên.
Thế nhưng, sau Đại hội Phật giáo kỳ VIII do Hoà thượng Huyền Quang triệu tập tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, ngày 1-10-2003, để bổ sung nhân sự vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo, thì chuyến xe chở 10 vị giáo phẩm về lại Saigon bị chận bắt tại Lương Sơn hôm 8-10, trong số có hai ngài Huyền Quang và Quảng Độ. Tất cả đều bị bắt đi “làm việc” và ra khẩu lệnh quản chế.
Từ đó đến nay Giáo hội luôn bị đàn áp, sách nhiễu thường trực. Mọi hoạt động của 20 Ban Đại diện Giáo hội tại các tỉnh thành đều bị ngăn cấm. Chùa Giác Minh của Hoà thượng Thanh Quang ở Đà Nẵng bị phong toả thường trực, các Đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay Tết bị ngăn cấm tổ chức.
Thế nhưng Giáo hội không ngừng lên tiếng cho những vấn nạn xã hội hay đất nước. Từ nơi quản chế Quảng Ngãi, ngày 20-11-1993, Hoà thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn, yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến Pháp và bầu cử lại Quốc hội dưới sự giám sát của LHQ với sự tham gia của tất cả các đảng phái quốc gia.
Đầu năm 1994, Hoà thượng Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu trợ nạn bão lụt khủng khiếp ở đồng bằng sông Cửu Long. Bị kết án 5 năm tù, giam tại nhà tù Ba Sao. Được ân xá năm 1998, nhưng vẫn còn quản chế tại Thanh Minh Thiền Viện, Saigon. Ngài tuyên bố : “Tôi đi từ nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn”.
Năm 2001 ngài công bố “Lời kêu gọi cho Dân chủ” với giải pháp 8 điểm thực hiện, mà ngài xem như giải pháp duy nhất cứu nguy dân tộc.
Ngày 17-5-2007, Hoà thượng Quảng Độ đến uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho Dân oan khiếu kiện trước tiền đình Quốc hội II ở Saigon. Việc làm bị báo chí truyền thông nhà nước tố cáo, hăm doạ trong vòng 3 tháng. Ngài cũng nhiều lần lên tiếng tố cáo về việc Trung quốc xâm lấn lãnh thổ và biển đảo, nạn bô xít Tây nguyên nơi Trung quốc nắm yết hầu quân sự, chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa, cho đến gần đây, năm 2014, biến cố giàn khoan Hải dương 981.
Nhiều vị Đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Na Uy, Đức, Anh, Pháp… vẫn thường xuyên đến vấn an, trao đổi với Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Liên tiếp nhiều năm, ngài được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình. Năm 2003, ngài và ngài Huyền Quang được trao Giải Nhân quyền của Tiệp dưới sự chủ trì của cựu Tổng thống Vaclav Havel, năm 2006 ngài được Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto của Vương quốc Na Uy.
Nhờ sự lưu tâm quốc tế này mà ngài và hàng giáo phẩm Giáo hội không bị khủng bố, bắt giam tuỳ tiện như những năm sau 30 tháng Tư 75.
Ngài xác nhận lập trường Giáo hội suốt 40 năm qua không hề thay đổi như sau :
“Chừng nào mà chế độ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam còn, thì Giáo hội không được sinh hoạt bình thường đâu.
“Họ dùng đủ cách để mà xoá sổ, xoá sạch cái danh nghĩa của Giao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên đất nước Việt Nam. Mà chưa hết đâu, còn nhiều. Vì thế cho nên cứ sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để đón nhận, để đương đầu.
“Cho nên trước khi tiễn đưa Đức Tăng Thống đến nơi an nghỉ cuối cùng, thì chúng tôi đã nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài.
“Còn rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai, nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi thở thì vẫn cứ tiếp tục. Đó là cái chí nguyện của Giáo hội”.