Tuesday, 23 August 2016

Phạm Đức Đồng Hùng - Quân phiệt Trung Hoa: Nếu gây chiến với Nhật

    Cách hành xử ngông cuồng của Trung Quốc và chuyện ồn ào đang diễn ra quanh đảo Điếu Ngư và không khỏi làm thiên hạ băn khoăn. Thứ nhất, liệu chiến tranh Trung Nhật có thể xảy ra hay không? Thứ hai, nếu nó xảy ra thì thì phần thắng sẽ thuộc về ai?

Nhìn chung, theo giới phân tích quốc phòng, với sức mạnh quân sự đơn thuần, Trung Quốc không thể chọi lại Nhật. Thêm vào với thế cô lập về ngoại giao, Trung Quốc càng không thể chọi lại Nhật. Tuy nhiên để tìm câu trả lời trọn vẹn và thuyết phục, trước hết chúng ta cần trở về với các bài học lịch sử.
 Bài học từ lịch sử
 Chỉ đơn giản nghĩ rằng  năm 1941 Nhật đã có một lực luợng hải quân hùng mạnh, đã đưa hàng không mẫu hạm bấn thần tấn công Trân Châu Cảng của Mỹ. Còn Trung Quốc thì đến giờ vẫn chưa tự làm được chuyện này. Tất cả những gì Trung Quốc làm lại mua lại một hàng không mẫu hạm loại “vứt đi” của Ukraine rồi bỏ ra 14 năm “gia công” và đến tháng Ba năm nay mới có thể hạ thủy. Thế nhưng hàng không này chỉ hạ thủy để chơi, để tập tành và huấn luyện, chưa thể sử dụng cho tác chiến.
Nhật đã đánh thắng Trung Quốc trong chiến tranh Thanh-Nhật từ 1894 đến 1895, đánh thắng Nga trong Chiến tranh Nga-Nhật kéo dài từ 1904 – 1905 để vươn lên thành cường quốc thời đó.

Cả hai cuộc chiến này đều khai pháo bằng hai trận hải chiến,đánh tan hạm đội Trung QUốc năm 1894 tại Hoàng Hải, tấn công rồi bao vây hạm đội Nga tại cảng Lữ Thuận năm 1904.  Ở đây chúng ta chỉ nhắc đến trận đánh với  Trung Quốc vào năm 1894, trận đánh đã đảo ngược trật tự thế giới.

Lúc đó Trung Quốc đang bị Nhật lấn lướt trong cuộc tranh giành bán đảo Triều Tiên nên muốn đưa quân sang tính sổ một trận lớn. Tuy nhiên ý đồ này không thành và sau đó bị Nhật nuốt chửng với thất bại đầu trên biển Hoàng Hải vào ngày 17/9/1894.

Trận hải chiến Hoàng Hải hay còn có tên khác là trận chiến sông Áp Lục, diễn ra ở cửa sông Áp Lục đổ ra biển Hoàng Hải,  là vùng biên giới giữa Triều Tiên và Trung Quốc. Trung Quốc cần vượt qua được khe cửa hẹp Áp Lục để giành lại ưu thế đang dần bị mất ở Triều Tiên. Để bảo vệ quyền lợi của mình, Nhật phải chặn lại, không cho quân Trung Quốc tiến sang Triều Tiên mà Nhật đang kiểm soát phần lớn.

Trung Quốc tiến hành cuộc chiến với lợi thế hơn hẳn về số lượng cũng như hệ thống đại bác cỡ lớn hiện đại, được xem cho là có ưu thế tuyệt đối với Hạm đội Bắc HẢi do Đô đốc Đinh Nhữ Xương chỉ huy.

Trên giấy tờ hạm đội này được trang bị những thiết giáp hạm hiện đại nhất thời đó là Định Viễn (Dingyuan) và  Trần Viễn (Zhenyuan), 2 chiến hạm mà giới quan sát cho rằng Nhật không thể nào đối đầu.  Hạm đội trang bị những pháo thần công cỡ lớn 200 - 250 mm và có sự giúp đỡ của các cố vấn là sĩ quan hải quân nước ngoài đến từ Đức, Anh và Mỹ.

Trong khi đó thì Hải quân Nhật chỉ mới được thành lập vội vã, do Đô đốc Sukeyuki Ito chỉ huy. Tuy nhiên đã chặn đứng được cuộc đổ bộ của lục quân Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của hạm đội nói trên.

Vào trận Hạm đội Bắc HẢi  bố trí theo đội hình hàng ngang như một bức trường thành trên biển. Trong khi đó  Hạm đội Nhật đội hình "mũi tên" để tấn công.

Trung Quốc bố trí hai thiết giáp hạm mạnh của mình ở giữa, các chiến hạm yếu hơn phân bố 2 bên, như một thứ “Vạn lý trường thành” di động trên mặt nước. Nhưng càng vào trận thì trường thành này càng bị gãy khúc do sự chênh lệch tốc độ và do sự điều hợp và liên lạc lủng củng.

Trước một đội hình rời rạc và lề mề của Trung Quốc, Hạm đội Nhật xả hết tốc độ tấn công vào hai cánh của Hạm đội Trung Quốc. Đến lúc này tư lệnh Đinh Nhữ Xương mới nhận ra rằng những tàu chiến hỏa lực yếu ở hai cánh của mình không thể nào chịu nổi đối thủ Nhật. Trong khi đó hai chiến hạm mạnh nhất ở giữa thì không thể làm được gì vì chính các tàu khác Trung QUốc cản tầm bắn của nó. Hạm đội Trung Quốc rơi vào thế bí, phải dàn mỏng đội hình và chống trả từ cả 2 cánh.

Truớc tình hình khẩn, cố vấn Ferdinand Tyler người Anh có mặt trên thiết giáp hạm đề nghị Đinh Nhữ Xương để thay đổi đội hình. Vì tự ái, họ Đinh khư khư với chiến thuật cũ và cuối cùng là thảm bại.

Hai thiết giáp hạm là Định Viễn và Trấn Viễn chỉ bị hư hại nhẹ do đứng ở giữa đội hình tuy nhiên Nhật cho răng Đinh Nhữ Xương đã tháo chạy từ sớm, bằng không đã làm hang cho cá ở đáy biển.

Tính ra Hạm đội biển Bắc bị thiệt hại nặng nề vói 850 thủy thủ mất tích, 500 thủy thủ bị thương, 5 chiến hạm bị đắm và 3 chiến hạm hư hại nặng. Phía Nhật bị hư hại 4 chiến hạm, thiệt mạng 280 thủy thủ và 200 thuỷ thủ bị thương.

Nguyên nhân thất bại
 Về sau các sử gia đã nghiên cứu và chỉ ra những nguyên nhân thất bại của Trung Quốc.
Thứ nhất, và gần với hiện trạng hải quân Trung Quốc hôm nay nhất, là nạn tham nhũng. Kết quả điều tra sau đó cho thấy nhiều trái đạn đã bị các sĩ quan và thủy thủ tráo thuốc súng mang đi bán, nhét cưa và bùn vào trong để che giấu. Thậm chí bản tường trình cho thấy ít nhất có một trường hợp một cặp nòng pháo cỡ 10 inch (250mm) đã bị các sĩ quan mang đi cầm để lấy tiền xài.

Thứ hai là sự thiếu chuẩn bị. Hải quân Trung Quốc mạnh về số lượng nhưng thiểu chuẩn bị, các loại đạn bị sai kích cỡ không thể sử dụng, và chủ yếu là loại đạn cũ đã sản xuất từ hơn 30 năm trước.

Trước đó Tổng lý nha môn đại thần Lý Hồng Chương – người hiện đại hoá hải quân TQ lúc đó, cha đẻ của các trường Hải quân Học hiệu (1881), Hải quân Cơ khí Học hiệu, Quân sự Học hiệu (1885) vvv… --- đã nhận ra viện này nên đã ra lệnh hạn chế các cuộc tập luyện để dành đạn cho thực chiến. Lý Hồng CHương còn đề nghị triều đình cung cấp thêm ngân khoản cũng như trì hoãn chiến dịch “đả Nhật” cho đến lúc có đầy đủ đạn dược. Tuy nhiên những kẻ quan liêu tại Bắc Kinh gọi ông là kẻ hèn nhát và gạt bỏ kiến nghị này.

Thứ ba là lười biếng, ỉ lại.  Hải quân Trung Quốc đã có mặt ở khu vực chiến sự từ nhiều tháng trước đó nhưng rất lơ là trong việc luyện tập và chuẩn bị. Giới chỉ huy cũng không chuẩn bị tâm lý cho mình và cả quân nhân để tác chiến dưới áp lực của hải pháo. Không quen với hỏa lực của chiế tranh hiện đại, nhiều sĩ quan đã chạy nấp dưới khoang tàu.

Thứ tư là thiếu tự tin. Bênh cạnh bộ tham mưu Trung Quốc còn có các sĩ quan cố vấn Đức ( Đại tá von Hanneken), W. F. Tyler (trung úy Hải quân Anh) và Philo McGiffen (thiếu úy Hải quân Mỹ). Trung Quốc mướn cố vấn như tự ái, không nghe lời cố vấn.

Trong khi đó thì người Nhật hoàn toàn làm chủ chiến thuật của mình, hoàn toàn tự tin vào mình. Nhật đã giành chiến thắng bằng nhờ nghệ thuật điều khiển chiến hạm và thủy thủ trên biển, bằng cách sử pháo binh và tinh thần thủy thủ.

Ngày nay lực lượng trên biển của Nhật vẫn duy trì ưu điểm này. Tuy nhiên trước hết cần so sánh lực lượng hiện tại giữa hai bên.

Tương quan lực lượng
 Bất cứ nhà phân tích nài cũng đều cho rằng lợi thế thuộc về Nhật cho dù Nhật không thể so sánh với Trung Quốc về số lượng chiến hạm và vũ khí.  Hiện tại Trung Quốc hơn hẳn Nhật về số lượng chiến hạm và thiết bị, tuy nhiên bị xem là thấp hơn Nhật trên khía cạnh phẩm lượng, cả về phương tiện chiến tranh và đội ngũ quân nhân sử dụng các phương tiện ấy.

Hải quân Nhật có danh xưng chính thức là “Lực lượng phòng vệ biển” (JMSDF) có 48 chiến hạm và 16 tàu ngầm. Tong khi đó Trung Quốc có tới 73 chiến hạm và 63 tàu ngầm.

Tuy nhiên “qúy hồ tinh bất qúy hồ đa”, tương quan lực lượng hiện tại lại nghiêng về phía nhật xét theo những tiêu chí đã làm nên thất bại Trung Quốc vào năm 1894.

Chỉ đơn cử một ví dụ là chiến hạm Nhật hầu hết trang bị “Hệ thống tác chiến Aegis” (Aegis combat system), được Công ty Lockheed Martin của Mỹ  đưa ra thử nghiệm thành công vào năm 2009 và đến nay chỉ trang bị cho một số quốc gia đồng minh thân cận với Mỹ, trong đó có Nhật, Úc, Nam Hàn, Tây Ban Nha.

Hệ thống tích hợp 2 loại radar quét tập trung và khoá mục tiêu, bao gồm nhu liệu điều khiển và các thiết bị điện tử đi kèm, có thể dẫn đường cho hoả tiễn tấn công nhiều mục tiêu cùng lúc, đảm nhiệm viêc gây nhiễu, tác chiến điện tử hay tiếp sóng thông tin mã hóa băng thông rộng. Ngoài khả năng điều khiển hỏa lực, hệ thống còn quét radar sát mặt biển để phát hiện các kính tiềm vọng của tàu ngầm.

Còn Trung Quốc thì dường như chỉ xây dựng lực lượng cho sướng tai, để đẩy con số lên cao chứ ít chú tâm đến việc huấn luyện và hoạt động. Hải quân Trung Quốc không có nhiều cơ hội rèn luyện khả năng tác chiến và hợp đồng binh chủng.

Tới thập niên 80 và 90 của thế kỷ 20 hải quân Trung Quốc chủ yếu hoạt động ở vùng biển gần. Tháng 11/1985, Trung Quốc mới thực hiện chuyến thăm nước ngoài đầu tiên tới Pakistan. Đến tháng 5/1986, biên đội hỗn hợp thuộc Hạm đội Bắc Hải mới lần đầu tiên hoàn thành khoa mục luyện tập tác chiến hiệp đồng biển xa.

Cho tới năm 2005 không có chiếc nào trong số 50 tàu ngầm của Trung Quốc tiến hành tuần tra viễn dương. Đến năm 2008 đội tàu ngầm Trung Quốc đã tiến hành 12 lần tuần tra viễn dương nhưng tính ra thì cứ 4.5 tàu ngầm Trung Quốc mới có cơ hội đi tuần tra viễn dương một lần. Ngoài ra, từ khi đưa vào phục vụ tới nay, tàu ngầm hạt nhân chiến lược 092 lớp Hạ của Trung Quốc chưa một lần đi tuần tra viễn dương.

Trung Quốc có 74 tàu trục hạm và hộ tống hạm. Nếu tiếp tục duy trì cách làm việc hiện tại thì phải 4-5 năm nữa cả các chiến hạm chủ lực của Trung Quốc mới có thể được trải nghiệm thực chiến viễn dương thông qua hoạt động chống cướp biển Somalia.

Rõ ràng, Trung Quốc chưa đạt đến tiêu chuẩn cường quốc hải quân phương Tây!

Bên cạnh đó, các chiến hạm Trung Quốc còn có một điểm yếu khác là không đủ năng lực căn bản như chống tàu ngầm và chống thủy lôi.

Xem xét số lượng tàu ngầm hạt nhân và tàu ngầm thông thường bố trí xung quanh Trung Quốc, giới phân tích cho rằng nước này đã tính sai đường và đáng lý phải giành ưu tiên hơn cho việc phát triển năng lực tác chiến chống ngầm.

Hải quân Trung Quốc thiểu khả năng tự vệ nếu đối phương bao vây và tấng công bằng thủy lôi. Hải quân Trung Quốc có thể tiến hành thả thủy lôi quy mô lớn, phong tỏa bờ biển của nước khác hoặc bảo vệ vùng biển của Trung Quốc, nhưng lại không có đủ năng lực để loại trừ thủy lôi của đối phương. Như vậy, phải đóng cửa các tuyến đường trên biển., Nhật chỉ cần đơn giản sử dụng vài trăm quả thủy lôi.

Theo một nhà phân tích ở Hong Kong thì phong tỏa eo biển Đài Loan bằng thủy lôi loại tiến công là có thể ngăn chặn được chiến dịch sử dụng vũ lực đế chiếm đảo quốc này,

Nhà phân tích trên cho rằng để bảo vệ lợi ích thương mại ngày càng gia tăng trên trường quốc tế, Trung Quốc cần phải có lực lượng hải quân biển xa. Đó là một lực lượng đa tầng với các chiến hạm viễn dương, các tàu tiếp nhiên liệu, tàu tiếp liệu và tàu sửa chữa cỡ lớn cùng không lực và thủy quân lục chiến đi kèm.

Nếu một đội hộ tống hạm chỉ có vài khu trục hạm và hải vận hạm, thiếu sự yểm trợ của không quân, ở nơi cách xa Trung Quốc hàng nghìn cây số, hải đội này sẽ khó mà tự bảo vệ được thân mình, đừng nói gì đến việc bảo vệ tuyến đường vận tải thương mại.

Còn thủy quân lục chiến thì cần dựa vào số lượng lớn tàu đổ bộ tiến công, có thể tiến hành chiến dịch đổ bộ tầm xa dưới sự hộ tống của không lực hải quân.

Ngoài ra, để bảo vệ thương mại đối ngoại, điều quan trọng hơn việc chế tạo chiến hạm viễn dương và hạm đội chi viện là kết giao với các cường quốc hải quân.

Đó là những điều mà Trung Quốc chưa làm được.

Hiện tại, tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn, có thể phóng hoả tiễn mang đầu đạn hạt nhân, là chiến hạm hiện đại của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, tờ The Washington Post dẫn báo cáo từ Cục Tình báo hải quân Mỹ lưu ý rằng tàu ngầm lớp Tấn rất dễ bị phát hiện vì phát ra tiếng động to hơn các tàu ngầm do Liên Xô chế tạo cách đây 30 năm.
  
So sánh con người
 
Về về kinh nghiệm thì Nhật hơn hẳn Trung Quốc vì đã tích lũy nhiều kinh nghiệm hải chiến từ Đệ Nhị thế chiến cũng như liên tục tham gia tập trận với Mỹ cùng các quốc gia khu vực.

Bên cạnh đó hải quân và các lực lượng thuỷ quân lục chiến Nhật rất nổi tiếng về tính chuyên nghiệp.  Giới phân tích thường tỏ ý tháng phục về sự rèn luyện bài bản và tinh thần chiến đấu cao của quân nhân Nhật.

Như đã nói ở trên, tại Hoàng Hải năm 1894, Nhật đã giành chiến thắng nhờ vào nghệ thuật điều khiển tàu và thủy thủ trên biển, pháo binh và tinh thần. Ngày nay lực lượng Nhật vẫn duy trì thành tích này.

So ra thì Hải quân Trung Quốc thua xa vì lâu nay chỉ là một lực lượng “gần bờ” chưa kể những vấn nạn từ thòi nhà Thanh là tham nhũng trong quân đội.

Năm ngoái, Trung tướng Chính ủy Tổng Cục  Hậu Cần Lưu Nguyên – con trai của cố chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ -- đã l ên tiếng về tình trạng tham nhũng trong quân đội Trung Quốc.

Trong bài diễn văn đọc trước các sĩ quan cuối năm 2011 Lưu Nguyên cho rằng đi đến đâu, trong hay ngoài nước, quân đội Trung Quốc đều “không để ai đánh bại, tuy nhiên nó có thể bị đánh bại bởi chính nó khi nạn tham nhũng đang lan tràn”.

Lưu Nguyên vạch trần các thủ đoạn tham nhũng: biển thủ công quỹ, lạm dụng chức quyền và công vụ, mua quan bán tước. Lưu Nguyên đề cập tình trạng bè phái, mafia trong quân đội với các hành vi đe dọa,  đảo chính trong nội bộ, thậm chi ột số các sĩ quan còn tổ chức bắt cóc các sĩ quan trung thực và cưỡng ép cấp trên phải che chở cho họ.

Về biển thủ công qũy, Lưu Nguyên đề cập đến việc “ăn đạn” trong tập trận, thay vì bắn đạn thật đã bắn đạn giả, thay vì hành quân xa lại tổ chức hành quân gần đê giảm chi phí và hưởng tiền chênh lệnh. Theo họ Lưu thì chống tham nhũng là “vấn đề sống còn” vì tình trạng này tất sẽ dẫn đến hợp “bất tuân thượng lệnh” trong trường hợp chiến tranh xảy ra.

Nếu chiến tranh xảy ra, chắc chắn tình trạng của trận hải chiến Hoàng Hải năm 1894 sẽ lập lại: sĩ quan đào ngũ, đạn bị tịt ngòi, cấp duới không nghe lời cấp trên, hoàn toàn bị động trước chiến thuật nhanh nhậy của đối phương.

Quân phiệt Trung Hoa: kiệt sức vì chạy đua?

Thực tế lại là một sự nghịch lý

“Nếu ngân hàng cho bạn vay một ngàn đô la, ngân hàng là ông chủ của bạn. Nhưng nếu ngân hàng cho bạn vay một triệu đô la, bạn sẽ là ông chủ của ngân hàng.”
 (If the bank lends you a thousand dollars, the bank owns you. But if the bank lends you a million dollars, you own the bank).

Trung Quốc đang là chủ nợ lớn của Mỹ do đó phải o bế để bảo vệ, không cho nền kinh tế Mỹ bị sập. Chính như thế nên chủ nợ Trung Quốc đã trở thành…con nợ của Mỹ.

Dẫu quân đội Trung Quốc thiếu hiệu năng với nạn tham nhũng như đã bàn tuần trước, sức mạnh quân sự của Trung Quốc đã đang và sẽ là đề tài gây quan ngại. Trung Quốc xây dựng sức mạnh quân sự là để chiếm lĩnh vị trí siêu cường của Mỹ. Mỹ mạnh hơn Trung Quốc, do đó Trung Quốc còn dè chừng. Mỹ lép vế thì Trung Quốc tha hồ làm chủ, 80 phần trăm Biển Đông sẽ thuộc về họ.
Trên thực tế, Trung Quốc sẽ vượt qua những hạn chế hiện tại để xây dựng sức mạnh của mình như thế nào?
Theo một phân tích gia người Mỹ là Scobell thì Trung Quốc tiến hành việc xây dựng sức mạnh của một siêu cường quân sự theo 4  hướng:
1. Xây dựng một lực lượng Hải quân mạnh mẽ, kiểm soát các vùng biển mở và từng bước thách thức sự thống trị toàn cầu của Mỹ.
2. Tận dụng các nguồn cung nước ngoài và dựa vào năng lực sản xuất nội địa để phát triển kỹ nghệ quốc phòng với mục tiêu ít nhất là vượt Nga.
3. Phát triển chiến lược theo hướng “nhà ai nấy rạng”. Chấp nhận sự vượt trội kỹ thuật quân sự Mỹ, chiến lược phòng thủ của Trung Quốc tập trung vào việc giảm bớt lợi thế của Mỹ. Ví dụ như phát triển vũ khí chống vệ tinh, khai triển chiến tranh Internet.
4. Thực hiện ý nguyện của Mao, xây dựng quân đội không chỉ để bảo vệ đất nước, mà còn là động lực phát triển kinh tế, nâng cao uy tín của đất nước và là niềm tự hào của người Trung Quốc.
Từ năm 2009 Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt tiết lộ kế hoạch hiện đại hóa quân đội này rồi. Họ Lương muốn nâng cao khả năng tác chiến xa bờ của hải quân để làm chủ 80 phần trăm biển Đông. Song song, không quân cũng phải bay xa hơn để phối hợp với hải quân trong tham vọng bành trướng này. Ngoài ra, họ Lương cũng đề cập đến việc tăng cường năng lực của pháo binh bao gồm vũ khí nguyên tử lẫn vũ khí quy ước.
Nhưng muốn là một việc, làm được hay không là một việc. Theo nhiều nhà quan sát thì sức mạnh của Trung Quốc đang được phóng đại, không chỉ bởi các cường quốc mà còn bởi chính Bắc Kinh.
Trên thực tế thì Trung Quốc đã đạt được những bước phát triển mạnh về hải quân, không quân và lục quân, thí dụ hải quân có lực lượng trong hạm đội hải quân lớn nhất tại châu Á. Trên Tạp chí Foreign Affair nhà nghiên cứu chiến lược Drew Thomson cho rằng Quân đội Trung Quốc (PLA) không đáng sợ như người ta vẫn tưởng.
Giống như một máy computer muốn họat động tốt thì phải vừa tối về “hardware” là máy móc, các mạch chip v.v.. và “software” là các nhu liệu lập trình. So sánh với tiêu chuẩn của một siêu cường quân sự thì PLA vừa yếu về phần “cứng” là vũ khí và còn yếu về “phần mềm” là tính chuyên nghiệp và tinh nhuệ của lực lượng và tinh thần chiến đấu của người lính.
Về tính chuyên nghiệp và tinh thần chiến đấu thì chúng ta đã bàn trong tuần trước, qua các yếu tố tham nhũng, bè phái và tính “công tử” của đội quân tòan các đấng con trai duy nhất để nối dõi tông đường. Bây giờ chúng ta bàn sang phần “cứng”.
Phần “cứng” của PLA
Cho tới nay kỹ nghệ quốc phòng của Trung Quốc còn phụ thuộc vào kỹ thuật của nước ngoài, đặc biệt là của Nga.
Sau nhiều năm phát triển Trung Quốc vẫn chưa thể tự chế tạo được động cơ cho các chiến đấu cơ mà phải mua của Nga. Các máy bay do Trung Quốc tự chế tạo thì chỉ có phần vỏ, còn lại nhập phần ruột và chỉ sử dụng trong thao diễn còn các máy bay quân sự cơ tối tân nhất đều phải mua, từ chiến đấu cơ Sukhoi 35, vận tải cơ IL 476, máy bay tiếp liệu trên không IL 478 và cả dàn phòng không S – 400 v.v.
Theo ông Ruslan Pukhov, nguyên là Giám đốc Trung tâm phân tích kỹ thuật chiến lược, đồng thời là cố vấn của bộ Quốc phòng Nga, cho rằng Trung Quốc cần phải mất ít nhất một thập niên nữa để hoàn thiện động cơ máy bay trong số các kỹ thuật quân sự chủ chốt khác. Ông nói: “Trung Quốc vẫn còn phụ thuộc vào chúng tôi và sẽ tiếp tục phụ thuộc như vậy trong thời gian tới“.
Trong khi đó thì giới chuyên gia Mỹ cho rằng cần phải nhiều năm, thậm chí nhiều thập niên nữa thì Trung Quốc mới có thể chế tạo được loại hoả tiễn đạn đạo tấn công tàu chiến.
Đối với ông Vasily Kashin, một chuyên gia chiến lược chuyên nghiên cứu kỹ nghệ quốc phòng Trung Quốc cho rằng dù đã có những bước tiến đáng kể trong việc phát triển kỹ nghệ vũ khí, các bước tiến bộ này của Trung Quốc đang bị thổi phồng cùng với nỗ lực tuyên truyền đánh bóng của Trung Quốc.
Đa số giới phân tích chiến lược đều cho rằng Trung Quốc hiện không có khả năng thách đố tính ưu thế của Mỹ trong vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Lực lượng trên bộ của Trung Quốc được trang bị với kho vũ khí cũ kỹ của những năm 1980 và thiếu hụt đáng kể về khả năng chỉ huy và kiểm soát, phòng không, tiếp liệu và thông tin liên lạc.
Không quân của Trung Quốc cũng vậy, lạc hậu so với không quân của các cường quốc Tây Âu, cho dù Trung Quốc có khoảng 100 tiêm kích mới nhất Su – 27 của Nga và đã ký hợp đồng mua máy bay Su – 33s, có thể tác chiến từ hàng không mẫu hạm. Tuy nhiên hàng không mẫu hạm của họ chỉ mới sắp sửa hoàn tất và không thể sử dụng cho tác chiến, chỉ đế huấn luyện.
Theo nhận định thì Trung Quốc còn phải mất nhiều thập niên nữa thì mới có thể thách thức được ưu thế quân sự của Mỹ. Tuy nhiên đến lúc đó thì ai biết được Mỹ sẽ tiến xa đến mức nào?
Để qua mặt Mỹ thì phải chạy đua vũ trang. Liệu Trung Quốc có kiệt sức vì cuộc chạy đua này?
 
Kiệt sức trên đường trường
Dù Trung Quốc hiện có gối đệm tài chánh lớn hàng ngàn tỉ Mỹ kim dự trữ nhưng vẫn chưa đủ. Lý do là nền kinh tế của Trung Quốc lớn nhưng không mạnh, lại có nhiều nhược điểm.
Mặt khác, sức mạnh kinh tế tùy thuộc vào ổn định chính trị: liệu cuộc chạy đua này sẽ không gây ra tác động nào đến ổn định chính trị?
Thứ nhất, các chi tiêu quân sự khổng lồ sẽ tạo cảnh rối ren nội bộ về chiến lược vì không phải tòan bộ giới cầm quyền Trung Quốc đều là diều hâu cả và hiện vẫn cò nhiều người muốn đầu tư số vốn đã tích lũy vào các dự án xã hội hay phát triển nông thôn. Hiện hai phe vẫn đang ngấm ngầm tranh chấp với con đường tiếp tục phát triển vũ trang mạnh mẽ để thực hiện nhanh giấc mộng bá chủ thế giới hay tập trung tài nguyên để phát triển thành một cường quốc kinh tế.
Cho đến nay giới diều hâu đã tạm lấn lướt. Không kể vụ khủng hỏang quyền lực trong vụ Bạc Hy Lai đã cho phe quân nhân nắm cán cân quyền lực khi đại hội tòan quốc sắp diễn ra vào cuối năm nay, về lý luận thì phe nay nhấn mạnh đến tấm gương của Nhật: là cường quốc kinh tế, Nhật phải trông cậy vào ô dù quân sự của Mỹ.
Theo họ thì Trung Quốc không thể trông cậy vào ai và sức mạnh kinh tế phải đi đôi với sức mạnh quân sự. Do đó phải chạy đua.
Thế nhưng cuộc chạy đua vũ trang trong thập niên 80 của thế kỷ 20 là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc Liên Xô phá sản. Ông Bob Dole, nguyên là lãnh tụ của Cộng Hoà tại Thượng viện Mỹ, từng là ứng cử viên tổng thống, tuyên bố trên tờ the New York Times: “Bằng cách tăng cường lực lượng phòng vệ chứ không phải tấn công, Reagan đã làm cho Liên Xô sụp đổ”.
Trong khi đó thì tài liệu giải mật về biên bản các cuộc họp của Bộ Chính trị Liên Xô ghi nhận nỗi lo lắng về việc xây dựng hoả tiễn phòng vệ trong chương trình “Chiến tranh giữa các vì sao”, lo lắng về sự cách biệt ngày càng gia tăng về quân sự và kỹ thuật giữa Mỹ với Liên Xô.
Công lao này thuộc về tổng thống thứ 40 của Mỹ, ông Ronald Reagean, được xem là người thúc đẩy cho sự tự hủy diệt của Liên Xô. Từ khi nhậm chức tổng thống, ông Reagan đã buộc Liên Xô phải căng sức chạy theo Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang này,
Bởi vậy, sau khi Ronald Reagan tạ thế vào tháng Sáu năm 2004, tạp chí The Economist tại Anh đã đăng hình ông lên trang bìa với dòng chữ: Người chiến thắng chủ nghĩa cộng sản.
Cuộc chạy đua vũ trang này làm cho Liên Xô kiệt quệ và bộc lộ những yếu kém ngay trong bản chất của nó. Năng lực của một chính quyền thể hiện khả năng phản ứng nhanh nhạy và hiệu quả trong những cuộc khủng hoảng hay tình trạng khẩn cấp và nhà nước Liên Xô đã hoàn toàn lúng túng trong vụ nổ lò phản ứng tại Ukerain hay vụ động đất tại Armenia. Đến khi lên cầm quyền thì ông Mikhail Gorbachev nhận ra rằng Liên Xô không thể tiếp tục tồn tại theo phương thức cũ.
Vì cạnh tranh với Mỹ trong mưu toan bá chủ hoàn cầu nên Liên Xô đã tan rã sau khi không kham nổi tham vọng này và bộc lộ những yếu kém và bất cập trong cơ chế chính trị – kinh tế và xã hội của mình.
Trường hợp Trung Quốc cũng tương tự. Nuôi tham vọng trở thành siêu cường số một nhưng tự thân nó thì chứa đầy những mầm mống tan rã.
Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc dựa vào thị trường thế giới. Nhưng hiện chính cuộc chạy đua vũ trang và thái độ bá quyền của nó đã khiến một phần lớn của thế giới là ASEAN, Nam Hàn, Nhật, Mỹ và Úc liên hiệp lại nhau với nhau. Trung Quốc càng chạy đua, càng diều hâu, sẽ bị thế giới xa lánh và bất lợi về kinh tế.
Đến lúc đó thì nước Trung Quốc sẽ hụt đà, mất cân bằng có còn là Trung Quốc “ổn định” với ngân sách an ninh nội địa còn cao hơn ngân sách quốc phòng của hôm nay?
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không mang danh xưng liên bang nhưng lại là tập hợp của các sắc tộc bị xâm lược chung quanh nước chủ nhà Đại Hán. Một khi chính quyền trung ương yếu đi thì phong trào ly khai sẽ nổi lên, từ Tây Tạng, Tân Cương cho đến Mãn Châu.
Trong khi đó thì thể chế chính trị của nó chỉ phục vụ một thiểu số đặc quyền và cái chính quyền xưng là “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” chẳng dính dáng chút nào đến nhân dân Trung Hoa. Chủ nghĩa cộng sản đã lỗi thời và Đảng cộng sản Trung Quốc đang bám vào tinh thần ái quốc kiểu Đại Hán.
Với những bất cập này, Trung Quốc sẽ chạy theo đối thủ của mình như thế nào?
Chạy theo đối thủ
Các thông tin cho thấy còn lâu Trung Quốc mới qua mặt Mỹ về kinh tế. Kinh tế Trung Quốc lớn nhưng không mạnh và nền kinh tế Mỹ mạnh gấp hai Trung Quốc.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thu nhập đầu người (GDP per capita) của Trung Quốc trong năm 2010 là 4,82 USD, so với của Mỹ là 47,84 USD. Cứ giữ nguyên tốc độ tăng trưởng này thì còn lâu Trung Quốc mới bắt kịp Mỹ. Với quá nhiều mầm mống xung đột, bấp bênh về tài nguyên cũng như đã đạt tới mức tăng trưởng bão hoà: tốc độ tăng trưởng trên sẽ có lúc giảm xuống và theo các kinh tế gia cho rằng Trung Quốc phải mất gần 50 năm nữa mới kịp Nhật và 100 năm nữa mới kịp Mỹ.
Nhiều người cho rằng Mỹ đã hết thời vì hàng Trung Quốc tràn ngập nước Mỹ: Trung Quốc bỏ tiền ra mau tiền Mỹ để phá giá đồng tiền để xuất cảng hàng vào Mỹ.
Tuy nhiên trong bài “‘Made in China,’ but Still Profiting Americans” (‘Chế tạo tại Trung Quốc’, tuy nhiên người Mỹ vẫn hưởng lợi) đăng trên New York Time ngày 15.8.20121, ký giả Catherine Rampell đã dẫn kết quả nghiên cứu của Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại chi nhánh San Franscico, cho thấy:
– Với mỗi Mỹ kim hàng “Made in China” bán được tại Mỹ, Trung Quốc chỉ mang về nước cao tay là 45 xu. Với các sản phẩm bán lẻ, Trung Quốc chỉ mang về được 36 xu.
– Cô số 55 hay 64 xu còn lại vào tay ngườ Mỹ gồm các dịch vụ vận chuyển, thuê kho hàng, luơng cho người bán hàng, chi phí quảng cáo cho món hàng, lợi tức cho các cổ đông của các siêu thị nhân bán các món hàng này.
– Tuy nhiên số lượng hàng nhập cảng từ Trung Quốc chiếm tỷ lệ khá nhỏ trong chi tiêu của người Mỹ.
– Trong tổng số tiều chi tiêu của người Mỹ chỉ có 13.9 phần trăm dành cho hàng nhập cảng, kể cả nhập cảng “nguyên hàng” hay “phụ tùng”. Và trong số này thì hàng nhập cảng từ Trung Quốc chỉ chiếm có 1.9 phần trăm tổng số tiền chi tiêu của người Mỹ.
Trung Quốc còn bỏ tiền ra mua công khố phiểu để trở thành chủ nợ chính của Mỹ và đây cũng là điểm “hết thời” của Mỹ. Ở đây chúng ta không thể không dẫn lại phát biểu nổi tiếng của nhà kinh tế Pháp Paul R. La Monica: “Nếu ngân hàng cho bạn vay một ngàn đô la, ngân hàng là ông chủ của bạn. Nhưng nếu ngân hàng cho bạn vay một triệu đô la, bạn sẽ là ông chủ của ngân hàng.” (If the bank lends you a thousand dollars, the bank owns you. But if the bank lends you a million dollars, you own the bank).
Trung Quốc đang là chủ nợ lớn của Mỹ do đó phải o bế để bảo vệ, không cho nền kinh tế Mỹ bị sập. Chính như thế nên chủ nợ Trung Quốc đã trở thành…con nợ của Mỹ.
Nếu đồng tiền bị giảm giá thì hàng nhập cảng sẽ đắt hơn và hàng xuất cảng sẽ rẻ hơn: đây chính là yếu tố kích thích kinh tế nội địa và tạo công ăn việc làm. Tiền giảm giá thì dân trong nước sẽ ít du lịch nước ngoài hơn và do đó cũng chỉ tiêu pha trong nước, đây cũng là yếu tố kích thích thị trường nội địa, nhất là ngành du lịch.
Để được như thế, từ hơn 10 năm nay Trung Quốc đã liên tục can thiệp để làm yếu đồng tiền của mình và hầu như bỏ ngoài tai các lời phàn nàn hay đe doạ của Mỹ. Nay thì đã đến lúc Mỹ ra tay, chơi trò dĩ độc trị độc bằng cách phá giá đồng tiền của mình.
Trung Quốc đã thao túng hối suất nhân dân tệ (NDT) với Mỹ kim bằng cách mỗi ngày bỏ tiền ra để mua vào 1 tỷ Mỹ kim và mua như thế trong gần 10 năm để giữ nhu cầu cao đối với tiền Mỹ, do đó giữ giá tiền Mỹ cao lên và nhờ đó bảo vệ công ăn việc làm của người dân Trung Quốc và bảo đảm sự ổn định chính trị khi ai cũng có công ăn việc làm. Số lượng tiền Mỹ này không phải giữ nguyên một chỗ mà còn dùng vào việc khác, thí dụ dùng để mua tiền Úc nhằm thanh toán các giao dịch khoáng sản. Cho đến qúy III của năm 2010 số lượng dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc hiện tại đã lên tới hơn 2,500 tỷ Mỹ kim.
Chính vì thế nên cán cân mậu dịch Mỹ – Trung đã nghiêng hẳn về phía Trung Quốc và trong khi Trung Quốc tận hưởng tình trạng “xuất siêu” (xuất cảng nhiều hơn nhập cảng) thì Mỹ lâm tình trạng “nhập siêu” (nhập nhiều hơn xuất). Từ lâu các nhà lập pháp Mỹ đã tranh cãi rất nhiều về đề tài này cũng như gây áp lực lên giới hành pháp. Theo họ thì Mỹ có thể tạo ra nửa triệu việc làm trong vòng 2 năm và làm hồi sinh các thành phố kỹ nghệ vang bóng một thời tại các bang Michigan, Illinois, Indiana, Ohio và Wisconsin mà không tốn một đồng xu nào cả: chỉ đơn giản buộc Trung Quốc ngừng hẳn việc thao túng tiền tệ, ngừng việc làm cho đồng Nhân dân tệ yếu một cách giả tạo để thúc đẩy xuất cảng và tăng trưởng kinh tế.
Đó là chiêu thức mà Trung Quốc đã theo đuổi từ bao nhiêu năm nay, sau khi thực hiện việc mở cửa và cải cách kinh tế. Để làm việc này, Trung Quốc không đơn thuần sử dụng độc quyền chính trị và kinh tế để ấn định giá hối đoái ở mức nào đó, tương tự chính phủ Việt Nam những năm trước, mà trên thực tế họ còn làm nhiều hơn thế bằng các biện pháp thị trường: bỏ tiền ra để mua đồng Mỹ kim.
Nhưng càng làm như thế, Trung Quốc càng trở thành con tin của Mỹ. Các quan sát viên ước tính rằng cho đến qúy III của năm 2010 số lượng Mỹ kim dự trữ của Trung Quốc đã lên tới hơn 2,500 tỷ Mỹ kim. Sau đó Trung Quốc trích một số Mỹ kim này để mua các trái phiếu mà chính phủ Mỹ phát hành.
Lấy thí dụ một công ty Mỹ đầu tư vào Trung Quốc số tiền 5 tỷ Mỹ kim. Công ty này không đơn giản chuyển tiền từ Mỹ vào Trung Quốc mà lấy ngay tiền của Trung Quốc qua các dịch vụ tài chính từ khoản Trung Quốc cho Mỹ vay qua việc mua trái phiếu.
Các công ty này lấy tiền của Trung Quốc, sử dụng nhân công rẻ mạt của Trung Quốc, sản xuất ra sản phẩm khoảng 100 Mỹ kim nhưng bán sang các thị trường khác với giá 500, 600 Mỹ kim và tiền lời sẽ chảy hết về Mỹ. Xét xem ai lợi hơn ai?
Trong khi đó, nếu Trung Quốc chơi trò phá để kinh tế Mỹ xuống, tiền Mỹ mất giá, kẻ lãnh hậu quả chính là Trung Quốc, 2500 tỷ Mỹ kim chỉ mất giá 1 phần trăm thôi, họ sẽ thiệt hại bao nhiêu. Do đó Trung Quốc phải làm sao để kinh tế Mỹ luôn vững mạnh.
Mà khi đồng tiền Mỹ mất giá thì nước Trung Quốc với 1.2 tỷ dân sẽ sinh loạn. Lúc đó hàng không xuất cảng được thì sản xuất đình đốn và do đó thất nghiệp lên cao, tỷ lệ bần cùng lên cao. Bần cùng sinh đạo tặc, mấy trăm triệu dân không có việc làm thì chóng hay chầy cũng vác dao hay súng đi ăn trộm và có thể quay lại chống chính quyền.
Phạm Đức Đồng Hùng