Mới đây, trả lời chuyên mục Quốc phòng của Đài phát thanh
tiếng nói Trung Quốc (CNR) ngày 16/3. Thiếu tướng Kim Nhất Nam, một giáo
sư chuyên nghiên cứu chiến lược quốc tế của quân đội Trung Quốc đã đưa
ra lời kêu gọi Chính phủ Trung Quốc dùng tiền để “mua lại” quần đảo
Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) của Việt Nam.
Giải thích về lời kêu gọi này, Thiếu tướng Kim cho rằng việc Hải quân
Trung Quốc hiện nay đang nắm giữ hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa về phương
diện quân sự và địa lý. Nhưng khó khăn lớn nhất của Trung Quốc chính là
việc các tranh cãi về chủ quyền khiến việc nắm giữ quần đảo giàu tài
nguyên này trên Biển Đông gặp nhiều trở ngại. Đặc biệt là liên tục vấp
phải các ý kiến phản đối từ cộng đồng quốc tế. Điều này gây rất nhiều
khó khăn cho Trung Quốc trong việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
trên quần đảo rộng lớn này.
Theo đó, Thiếu tướng Kim Nhất Nam đề nghị Quân đội Trung Quốc nên
tham vấn cho Chính phủ nước này việc bỏ ra một số tiền lớn, thông qua
các khoản viện trợ và tài trợ cho Việt Nam, để đổi lại quyền kiểm soát
toàn bộ quần đảo này trong tương lai. Cũng theo ông Kim, số tiền 200 tỷ
USD là hoàn toàn phù hợp đối với tiền năng kinh tế của Trung Quốc hiện
tại cũng như giá trị cốt lõi của quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, Hải quân
Trung Quốc cũng sẽ giảm được sự hiện diện lớn trên quần đảo này mà thay
vào đó có thể tiến vào các vùng nước xa hơn ở Thái Bình Dương trong vài
năm nữa.
Đây không phải là lần đầu tiên các học giả Trung Quốc đưa ra đề nghị
việc Trung Quốc dùng tiền để mua sự im lặng của Việt Nam. Thế nhưng,
việc Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa
thuộc chủ quyền của Việt Nam là điều không thể chối cãi.
Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam như thế nào?
Cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung
Quốc gọi là Tây Sa thực chất là những cuộc xâm lăng lãnh thổ bằng vũ
lực.
Điều này hoàn toàn không được công nhận và vi phạm nghiêm trọng điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc.
Có thể thấy rằng, Trung Quốc chỉ bắt đầu “nhòm ngó” quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, tổ chức tấn công xâm lược vào những năm
1946, 1956, 1974 và chiếm giữ trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
đến ngày nay.
Những luận điệu mà phía Trung Quốc đưa ra đều hoàn toàn phí lý và xuyên tạc.
Luận điệu thứ nhất của Trung Quốc cho rằng: “Trong chiến tranh thế
giới thứ 2, phát xít Nhật chiếm đóng quần đảo Tây Sa. Năm 1945, Nhật Bản
đầu hàng quân Đồng Minh, theo hàng loạt các văn kiện quốc tế, tháng
11/1946, Chính phủ Trung Quốc cử quan chức cấp cao đi tàu đến Tây Sa
tiếp nhận”.
Phân tích điều này sẽ thấy rõ:
Thứ nhất, Phát xít Nhật không xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa mà là từ
tay người Pháp đang bảo hộ cho Việt Nam. Trung Quốc không có chủ quyền ở
Hoàng Sa nên luận điệu “tiếp quản” là hoàn toàn vô lý.
Thứ 2, tại hội nghị Potsdam ngày 26/7/1945 các nhà lãnh đạo Tam cường
khi đó là Hoa Kỳ, Anh, Trung Hoa dân quốc đã quyết định chia Đông Dương
làm hai khu vực để tiện cho việc giải giới quân đội Nhật Bản đóng tại
đây.
Vĩ tuyến thứ 16 được chọn làm ranh giới: việc giải giới ở khu vực Bắc
vĩ tuyến ủy thác cho quân đội Trung Hoa (quân Tưởng Giới Thạch) và ở
khu vực phía Nam do liên quân Anh – Ấn đảm nhận. Vì quần đảo Hoàng Sa
nằm ở giữa hai vĩ tuyến thứ 15 và 17 nên việc giải giới quân đội Nhật
trú đóng ở đây thuộc thẩm quyền của quân Tưởng.
Tuyên ngôn Potsdam chỉ cho phép Trung Hoa dân quốc giải giới quân đội
Nhật Bản ở quần đảo Hoàng Sa, chứ không cho phép Trung Hoa dân quốc thu
hồi quần đảo này. Theo đó, Trung Hoa dân quốc, sau khi giải giáp quân
đội Nhật và ổn định tình hình cần phải trao trả Hoàng Sa cho quốc gia có
chủ quyền là Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Đại
học Mở thành phố HCM- người có nhiều công trình nghiên cứu khoa học giai
đoạn lịch sử đặc biệt này cho biết: “Vốn đã nhòm ngó Hoàng Sa của Việt
Nam từ lâu nên Trung Hoa dân quốc sau khi giải giáp quân đội Nhật Bản,
họ đã không trao Hoàng Sa cho Việt Nam mà thừa cơ chiếm đoạt. Việc làm
đó đã vi phạm Tuyên ngôn Potsdam và luật pháp quốc tế.”
“Việc chiếm đóng và thu hồi hai quần đảo này của Trung Hoa dân quốc
là bất hợp pháp và vi phạm nghiêm trọng luật quốc tế vì làm trái với
quyết định của Tuyên ngôn Potsdam. Trung Hoa dân quốc cần giải giáp quân
đội Nhật sau đó trả lại Hoàng Sa cho Việt Nam mới đúng nội dung của
Tuyên ngôn Potsdam.”- TS Phúc khẳng định.
Tất nhiên với Hiệp định Sơ bộ Hồ Chủ tịch ký với Cộng hòa Pháp ngày
6/3/1946, Việt Nam vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp nên Pháp vẫn thực
thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống xâm phạm chủ quyền của
Việt Nam ở Hoàng Sa.
Với những phản ứng mạnh mẽ của Pháp trước sự chiếm đóng trái phép của
quân đội Tưởng Giới Thạch ở Hoàng Sa và sự suy yếu trước các cuộc tấn
công như vũ bão của quân đội Mao Trạch Đông ở trong nước, quân Trung Hoa
dân quốc buộc phải rút khỏi đảo Phú Lâm, kết thúc khoảng thời gian ngắn
chiếm đóng trái phép ở quần đảo này. Đến ngày 14/10/1950, Chính phủ
Pháp chính thức trao lại cho chính phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ
Hoàng Sa.
Luận điệu thứ 2 Trung Quốc đưa ra: “Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã
đánh đuổi quân đội Sài Gòn Việt Nam khi đó đang chiếm đóng một số đảo
trong quần đảo Tây Sa”.
Sự thực vấn đề này như thế nào?
Lợi dụng thời khắc lịch sử rối ren của Việt Nam khi quân viễn chinh
Pháp buộc phải rút khỏi lãnh thổ của Việt Nam theo Hiệp định Giơnevơ,
quân đội Việt Nam Cộng Hòa chưa kịp tiếp quản Hoàng Sa, Trung Quốc đã
“lén lút” đưa quân chiếm đóng nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa vào
năm 1956.
Ngày 21/2/1959, CHND Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí
mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa nhằm đánh chiếm nhóm
đảo còn lại của quần đảo Hoàng Sa nhưng đã bị lực lượng của Việt Nam
Cộng Hòa phát hiện. 82 binh lính Trung Quốc đóng giả ngư dân cùng với 5
tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc đã bị bắt giữ và áp giải về giam tại
Đà Nẵng, sau đó được trả lại cho Trung Quốc.
Năm 1970, thời điểm cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam vào giai
đoạn cao điểm, Hải quân của quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã tiến
hành một số hoạt động ít kín đáo trên nhóm đảo An Vĩnh, bộ phận phía
Đông quần đảo Hoàng Sa. Các cơ sở hạ tầng quân sự đã được xây dựng vào
năm 1971. Từ ngày 17 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc mở cuộc tấn công vào
lực lượng hải quân của Việt Nam Cộng Hòa với lực lượng hùng hậu: một hạm
đội gồm 8 tàu chiến, lục quân và không quân. Dù đã chiến đấu quả cảm,
nhiều binh sĩ đã hy sinh nhưng đến ngày 20 tháng 1 năm 1974, Hải quân
Việt Nam Cộng Hòa đã thất thủ, Trung Quốc đã chiếm nốt nhóm đảo phía Tây
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Hành động đánh chiếm các đảo, quần đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là một
sự vi phạm nghiêm trọng Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc.
Trong đó nêu rõ: “lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của
một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của
Hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự
chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực.
Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực
sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hóa trong Nghị quyết 2526
ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, trong đó tuyên
bố: “Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe dọa hoặc bằng sử dụng vũ
lực đều không được thừa nhận là hợp pháp”.
Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư Công pháp và Khoa học Chính
trị của Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật
gia châu Âu nhấn mạnh rằng, việc chiếm đóng bằng các cuộc xăm lăng vũ
lực là vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, tất cả những hoạt động
của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa không được thừa nhận là hợp pháp.
“Trung Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử với quần đảo Hoàng
Sa, chính quyền nước này cũng không có quyền gì mà chỉ chiếm bằng vũ
lực. Điều này không thể được xem là một quyền theo luật pháp quốc tế.” –
Bà Monique Chemillier Gendreau khẳng định.
Như vậy, đã quá rõ ràng về cái mà Trung Quốc gọi là sự tiếp quản chủ
quyền của Trung Quốc ở Tây Sa (tức Hoàng Sa), càng rõ ràng hơn cái mà
Trung Quốc nói là đánh đuổi quân đội của VNCH trên quần đảo này vào
tháng 1 năm 1974. Đó thực chất chỉ là những hoạt động “trộm cướp” trong
những hoàn cảnh đặc thù mà luật pháp quốc tế đã và đang nghiêm cấm những
hành vi như vậy.
Luận điệu nữa, Trung Quốc đưa ra những dẫn chứng là lời nói vào năm
1956 của ông Ung Văn Khiêm, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt
Nam DCCH, nội dung công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thừa
nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Tây Sa. Trung Quốc cho rằng:
“Chính phủ VN hiện nay đã quên ngay những thừa nhận trước kia, vi phạm
nghiêm trọng quy định quốc tế và chuẩn tắc trong quan hệ quốc tế là
không được phản ngôn”.
Như đã phân tích trong nhiều bài viết trước về vấn đề này, theo Hiệp
định Giơnevơ năm 1974, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính
quyền Nam Việt Nam nên chỉ có chính quyền Nam Việt Nam mới được phát
biểu về Hoàng Sa. Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi đó không phải
là chính chủ về mặt lãnh thổ nên không có quyền, những lời phát biểu
hoặc sự thừa nhận của chính phủ Việt Nam DCCH về chủ quyền của Trung
Quốc ở Tây Sa đều không mang ý nghĩa pháp lý.
Thêm nữa, người Việt Nam không hề “phản ngôn” mà trái lại, việc thực
thi và tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa luôn được các cơ quan đại
diện hợp pháp duy trì một cách liên tục, không gián đoạn. Trong đó, có
thể kể đến thông cáo ngày 24/5/1956, Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh: “Toàn
bộ quần đảo Hoàng Sa luôn là một phần lãnh thổ thuộc Việt Nam”. Trước
đó, trước việc Trung Quốc dùng vũ lực đánh cướp nhóm đảo phía Tây, quan
sát viên của Việt Nam DCCH tại Liên hợp quốc khi đó đã chính thức yêu
cầu Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp Quốc xem xét hành động xâm phạm
chủ quyền lãnh thổ Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Tóm lại, tất cả những tài liệu mà Trung Quốc đưa ra nhằm chứng minh
chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa (tức
Hoàng Sa của VN) đều là ngụy biện và giải thích một cách gượng ép. Người
Trung Quốc chỉ thực sự nhòm ngó quần đảo Hoàng Sa của VN từ đầu thế kỷ
XX và tổ chức đánh cướp quần đảo này từ người Việt Nam bằng hành động
lén lút năm 1956 và tấn công quân sự năm 1974.
Hành động đánh chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực của Trung Quốc không những
vi phạm nghiêm trọng nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế mà
còn là những hành vi trái ngược với vị thế của Trung quốc trên trường
quốc tế.Nhưng chính quyền Trung Quốc không chịu tỉnh ngộ mà tiếp tục
ngang ngược khi cho hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của
Việt Nam cùng với sự hộ tống của đội tàu vũ trang đông đảo.
Nhưng dường như, tiến thêm 1 bước, Trung Quốc đang “giương đông, kích
tây” khi hạ đặt giàn khoan trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế
của Việt Nam, đã cấp tập tiến hành xây dựng nhưng căn cứ tại bãi đá Gạc
Ma thuộc quần đảo Trường Sa – nơi mà Trung Quốc cũng dùng vũ lực để tấn
công chiếm đoạt vào ngày 14/3/1988 từ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, hòng
thâu tóm Trường Sa và Biển Đông.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, trong một thế giới văn minh, những
hành động trái ngược với pháp lý và đạo lý mà Trung Quốc đã thực hiện
trong thời gian qua sẽ không thể có chỗ đứng trong lòng dư luận và cộng
đồng quốc tế.
Vĩnh Nam