Tuệ Nguyễn Văn Có
một câu hỏi vẫn luôn ám ảnh trong đầu cháu, rất mong bác Vũ Thư Hiên có
thể trả lời giúp cháu đó là: Sau tất cả những điều kinh khủng mà bác
phải qua trong suốt 9 năm trời như vậy, mà sao bác không có chút hận
thù, căm ghét gì với những kẻ đã hành hạ bác trong suốt những ngày tháng
tù đày dã man đến vậy ạ? Đọc “Đêm giữa ban ngày” cháu có cảm tưởng như
bác đang nói về chuyện của ai đó chứ không phải của mình vậy. Rất mong
bác có thể trả lời giúp cháu ạ.
Gửi
bạn Nguyễn Văn Tuệ, và các bạn: Chau Nhi, Kiều Mỵ, Phan Thuý Hà, Hong
Ngoc Trinh, Vương Quốc Toàn, Tran Thang, Hoài Thu Nguyễn…
Nhân
dịp bạn Nguyễn Văn Tuệ nêu câu hỏi, lần này tôi sẽ kể dài dòng một chút
để bạn và các bạn khác cũng từng đặt câu hỏi tương tự biết thêm về
chuyện cuốn Đêm Giữa Ban Ngày đã hình thành như thế nào. Trong câu
chuyện kể này, biết đâu đấy, các bạn lại tìm thấy câu trả lời.
1.
Năm 1994, tôi ở Moskva (Liên Xô cũ).
Việc khởi đầu cuốn sách liên quan tới một hiện tượng mà tôi không thể giải thích.
Một
buổi sáng, vừa mắt nhắm mắt mở vừa bước vào phòng tắm, tôi đứng sững –
trước mặt tôi, trong tấm gương lớn tôi thấy không phải tôi mà cha tôi.
Ông bất động, nhìn tôi bằng cặp mắt nghiêm khắc, có phần giận dữ. Hình
ảnh ấy chỉ xuất hiện trong một thoáng, rất nhanh, rồi tôi lại nhìn thấy
tôi trong gương như bình thường. Cảnh tượng cha tôi thoáng hiện ấy đưa
tôi về một thời gian đã xa:
“-
Bố thấy trong người yếu lắm – cha tôi thở dài – Chà, nếu bố còn khỏe!
Có nhiều điều bố thấy cần phải viết ra cho đồng bào biết. Nhưng không
còn sức nữa rồi. Bố kỳ vọng ở con. Con phải viết. Đó là trách nhiệm, con
ạ, là trách nhiệm.
Ông gắng gượng ngồi dậy, đặt tay lên vai tôi, nhìn vào mắt tôi:
–
Không phải vì mục đích vạch tội ai mà con làm việc này, không phải vì
mục đích ấy. Mục đích lớn hơn: qua vụ án này con phải để nói lên điều
khác, điều rất quan trọng đối với dân tộc ta. Nhân dân ta cần phải hiểu
để tránh xa vết xe đổ. Nước mà không có dân chủ, không có luật pháp,
hoặc luật pháp chỉ là xảo ngôn, là mảnh đất màu mỡ cho thể chế độc tài,
cho sự lộng hành tùy tiện của những tên độc tài…
Tôi hiểu tâm trạng cha tôi.
Ông
đã khoan thứ cho kẻ thù. Nhưng ông không ngơi lo lắng cho đất nước
trước viễn cảnh xám xịt của nền chuyên chế”. (Trích Đêm Giữa Ban Ngày).
Tôi quyết định bỏ mọi việc để thực hiện lời cha tôi dặn trước khi qua đời.
Ngay hôm ấy tôi đến công ty, nói lời từ biệt.
Mọi
người bàng hoàng vì sự bỏ đi đột ngột của tôi. Trong công ty thuần Nga
tôi là người Việt duy nhất, nhưng lại là bộ óc điều khiển hoạt động của
nó. Cả chục năm ở Sài Gòn để kiếm sống tôi đã học được ít nhiều cách
điều hành một công ty, trong khi đó thì những người bạn Nga vừa thoát ra
khỏi nền kinh tế kế hoạch hoá lại rất bỡ ngỡ. Chẳng cứ dân thường, ngay
chính quyền mới cũng rất vụng về trong việc chuyển sang kinh tế thị
trường. Một thí dụ: công ty chúng tôi gửi ngân hàng tiền dollar Mỹ và
Deutch Mark thì lập tức được ngân hàng tính thành rúp, coi như gửi rúp
chứ không phải ngoại tệ. Ít lâu sau lấy ra thì tỷ suất hối đoái đã khác
do lạm phát phi mã. Số tiền tính bằng rúp tăng lên chóng mặt, khoản
chênh lệch giữa hai thời điểm bị coi như lãi và công ty phải nộp thuế
cho số tiền mà người ta gọi là “lãi bất ngờ”. Kỳ quặc thế đấy, vừa buồn
cười vừa xót ruột, nhưng là sự thật. Những chuyện tương tự thời chuyển
đổi chế độ ở Liên Xô kể không hết.
2.
Những trang đầu tiên của Đêm Giữa Ban Ngày được bắt đầu như thế nào?
Cái
sườn đầu tiên cho cuốn sách chỉ là mấy trang phác thảo nằm lại ở Sài
Gòn, được cất giấu ở nhà bè bạn. Tôi không cần đến chúng nữa vì đã thuộc
nằm lòng. Tôi gặp may -vào thời gian đó tôi có nhu liệu Vietbit viết
tiếng Việt rất tiện lợi của tác giả Bùi Quang Minh hồi ấy cũng ở Moskva.
Cái Amstrad cổ lỗ không có ổ cứng, cứ viết thẳng vào đĩa mềm, không có
cách trình bày như mình muốn. Tôi mổ cò từng chữ, ngày nối ngày, miễn
sao nói được điều cần nói. Như tôi viết trong phần Tự Bạch “Văn học
không có cũ nơi đây”, tôi tránh hết sức thói quen viết văn để cuốn sách
chỉ chứa đụng những gì cần phải nói, nên nói. Chậm chạp, từng dòng một,
ngày lại ngày kỳ cạch nối tiếp, những trang bản thảo theo nhau làm đầy
dần từng đĩa. Những cái đĩa mềm ngày ấy đúng như tên gọi – chúng mềm
thật và to thật, đựng trong những bao giấy có thể chứa cả kí lô usb ngày
nay.
Tai họa đến bất ngờ.
Nghĩ
mình giờ đã ở Moskva, một nơi an toàn cách xa Việt Nam nhiều ngàn cây
số, tôi hoàn toàn yên tâm, không chút cảnh giác. Một người nào đó trong
số khách đến thăm tôi tình cờ đọc được vài dòng trên màn hình Amstrad đã
biết tôi đang viết gì.
Tin
bay về Hà Nội. Một toán đặc nhiệm được cử sang. Lợi dụng một hôm tôi về
nhà một mình, những tên đột nhập tấn công tôi ngay khi tôi vừa bước vào
thang máy. Một tên trẻ măng theo chân tôi xông vào lấy tay bịt miệng
tôi, đâm tôi một nhát, rồi khi thang máy lên đến tầng, những tên khác
chờ sẵn xô tới, nhanh nhẹn lục túi tôi lấy chìa khoá, đưa tôi vào phòng.
Ở đó chúng không nói một lời vật tôi xuống sàn, trói nghiến, bịt mắt
bịt miệng tôi bằng băng dính. Sau đó, không vội vã chúng lục lọi cả giờ
mọi xó xỉnh, lấy đi tất cả những gì tôi có – tiền nong, vật dụng, không
từ thứ gì, kể cả quần áo. Nằm trên sàn, tôi bất lực, chú ý nghe từng câu
cụt lủn chúng trao đổi với nhau,tôi hiểu – mục đích của cuộc đột nhập
theo cách của kẻ cướp là bản thảo cuốn sách
Tin
nội bộ từ Hà Nội cho tôi biết không đầy nửa tháng sau vụ đột nhập, việc
tôi viết Đêm Giữa Ban Ngày đã được thông báo ngắn gọn với những trích
dẫn trong một cuộc họp trung ương đảng (cộng sản). Điều này cho tôi thêm
chứng cớ để khẳng định tác giả của vụ tấn công. Và hiểu thêm rằng vì
sao những tên đột nhập chỉ đâm tôi một nhát cảnh cáo vào đùi chứ không
định đâm chết. Có thể hiểu được chúng chỉ làm thếdo có chỉ đạo. Ở Moskva
tôi có quan hệ rộng với nhiều nhà văn nhà báo Liên Xô, kể cả với giới
quan chức, tất yếu sẽ gây ra một sự ồn ào không cần thiết và không có
lợi nếu bị phanh phui. Vết đâm vào phần mềm không nặng, máu chảy ra
nhiều làm ướt sũng quần và lõng bõng trong giày. Điện thoại bị chúng lấy
mất, tôi phải nhờ điện thoại của hàng xóm gọi cho bạn bè và họ lập tức
phóng tới để đưa tôi đi bệnh viện.
Mấy
hôm sau, một trong những tên đột nhập gọi điện cho tôi vào nửa đêm, thì
thào bằng giọng hấp tấp: “Hay, chú ạ, cháu đọc rồi, chú viết tiếp đi
nhé!”. Rồi không thì thào nữa mà cho tôi biết tôi có thể nhận lại những
vật bị mất ở đâu – số điện thoại mà tên cướp cung cấp không khó khăn để
tra ra là số nhà riêng của một nhân viên lãnh sự quán Việt Nam. Câu sau
là quan trọng, nhưng chúng mới ngây thơ làm sao – đời nào tôi dại dột
đâm đầu vào rọ.
Về
chuyện này tôi đã kể lại với đầy đủ chi tiết trong một bài báo “Những
tên cướp dễ mến” được đăng trên tờ Việt Nam Dân chủ ở Paris. Nhiều bạn
đã đọc hỏi tôi có giữ lại được bài báo đó không, nhưng mặc dầu cố gắng
nhiều tôi không sao tìm ra. Tôi không có thói quen cất giữ những gì mình
viết, cho rằng nếu chúng có giá trị thì chúng sẽ tồn tại không cần đến
mình.
Một
tuần sau, tôi được mời tới ngôi nhà rất lớn chạy dài cả một phố
Lubianka nổi tiếng mà người dân Liên Xô nào cũng biết – trụ sở của KGB (Komitet Gosudarstvennoy Bezopasnosti – Bộ An ninh). Lúc ấy cơ quan quyền lực khủng khiếp một thời đã đổi tên là FSK (Federalnaya Sluzhba Kontrrazvedki – Cục Phản gián Liên bang) .
Viên đại tá tầm thước, với gương mặt thật thà của người nông dân vùng
Trung Nga, tiếp tôi trong căn phòng hẹp của ông ta dưới tầng hầm. Lấy ra
chai vodka và con cá khô vobla đặt lên bàn, ông ta và tôi bắt đầu câu
chuyện không vui. Chúng tôi vừa trò chuyện vừa uống rượu và nhai cá khô.
Cuối cùng, trước khi chia tay viên đại tá buồn rầu bảo: “Ông
thừa biết ai làm vụ này. Tôi xấu hổ phải nói với ông rằng FSK không thể
bảo vệ ông khi người ta chỉ cần bỏ ra vài ngàn dollars là đã thuê được
lũ mafia đang đói rạc giết ông. Tôi khuyên ông hãy chạy sang phương Tây,
ở đó ông mới có thể giữ được tính mạng”.
Tôi
không chạy sang phương Tây mà bỏ sang Warszawa, thủ đô của Ba Lan. Ở đó
tôi cặm cụi viết lại những chương bị lấy mất (khoảng một phần ba cuốn
sách) và vài chương tiếp theo. Công việc rồi cũng lại bị bỏ dở vì tôi
được mật báo công an từ Hà Nội đã sang Warszawa để lùng tôi, và không
biết lần này họ sẽ làm gì. Tôi đi Paris tị nạn và viết nốt những chương
cuối cùng ở đó. Một cuốn sách được viết ra với rất nhiều vất vả. Nếu nói
nó được viết cả bằng máu cũng không ngoa.
3
Tính
từ khởi đầu cuộc trấn áp cái gọi là “nhóm xét lại chống Đảng” (1967)
cho tới khi tôi đặt bút viết Đêm Giữa Ban Ngày thì đã qua gần 30 năm.
Khoảng cách về thời gian ấy là một độ lùi cần thiết cho người viết hồi
ký. Những trang viết sẽ tách khỏi những cảm xúc tại chỗ, nóng hổi, nhất
thời, gắn với những sự việc đang hoặc vừa xảy ra. Độ lùi này làm cho sự
nhìn lại và miêu tả những sự kiện xảy ra trong quá khứ khách quan hơn.
Đêm
Giữa Ban Ngày đã được thực hiện đúng như ý cha tôi muốn. Nó không phải
là cuốn sách về một vụ án. Tôi không có định viết về vụ “nhóm xét lại
chống Đảng” như một bản buộc tội những kẻ gây ra nó, cũng là thủ phạm
của vô vàn oan trái khác tràn lan trong xã hội thời ấy, hay như sự chiêu
tuyết cho những nạn nhân. Vụ án chỉ là cái nền cho sự miêu tả một xã
hội, trong đó tôi đã sống, với đầy đủ trải nghiệm của một thành viên bất
đắc dĩ. Tôi vui khi thấy nhiều bạn đọc hiểu đúng mục đích của cuốn
sách. Không có gì vô duyên hơn những hồi ký kể lể danh vị của cha ông
hoặc sự khoe khoang những thành đạt trong cuộc đời tác giả. Người ta đọc
hồi ký là để biết một cái gì lớn hơn cuộc đời của một cá nhân – ấy là
diện mạo của một xã hội trong đó tác giả nằm khuất dưới những hàng chữ
với tư cách nhân chứng.
Khi
viết Đêm Giữa Ban Ngày tôi không hề muốn nói về “cái tôi” trong sự
kiện, mà dùng sự kiện (vụ án) như cái nền trên đó hình ảnh của một xã
hội mà tôi coi là không xứng đáng với con người được lộ ra nhiều nhất có
thể. Chính vì thế mà bạn đọc mới được biết về những số phận người như
ông già ba chục năm tù “Jean Valjean gọi bằng Cụ”, thằng bé Hán Còi, ông
nông dân hiền lành Nguyễn Thái Bút hoặc tên “gián điệp quốc tế” Dịp Pún
Mằn… Nếu tôi có đưa vào cuốn sách những văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyễn
Tuân, hoạ sĩ Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái… thì đó là để nói về cách đối xử
của chính quyền cộng sản với lớp công dân ưu tú mà chính quyền ở các
quốc gia bình thường coi trọng.
Chính
vì để miêu tả những số phận bị chà đạp, bị dày xéo ấy mà bạn thấy tôi
không nói gì nhiều về thân phận tôi trong chín năm qua nhiều trại giam
và những gì tôi đã nếm trải, như thể tôi “đang nói về chuyện của ai đó
chứ không phải của mình vậy”. Những nhà tù (được gọi là “trại cải tạo”)
có rất nhiều chuyện đáng được nói đến, được kể ra, nhưng những cái đó
nằm ngoài mục đích của cuốn Đêm Giữa Ban Ngày. Chỉ tính những gì được
nói đến đã làm cho nó dày cộp rồi. Hơn nữa, tôi không có ý định viết một
cuốn sách thuộc dòng văn học “tố khổ”. Những tác phẩm loại này đã có
nhiều đến nỗi sự thêm vào một cuốn nữa là thừa.
Jean
Fréville (Eugène Schklaff (1895-1971) có một lời khuyên rất đáng giá
cho người cầm bút bất kể anh ta dùng thể loại văn học nào: “Hãy để sự
vật nói lên”. Sức mạnh của sự vật, cũng là sức mạnh của sự thật, lớn hơn
mọi thủ pháp văn chương. Tôi đã cố gắng theo đúng lời khuyên này, nhưng
không chắc mình đã làm được.
Bạn hỏi: “Sau
tất cả những điều kinh khủng mà bác phải qua trong suốt 9 năm trời như
vậy, mà sao bác không có chút hận thù, căm ghét gì với những kẻ đã hành
hạ bác trong suốt những ngày tháng tù đày dã man đến vậy ạ?”. Bảo
rằng tôi không có chút hận thù hay căm ghét nào với những kẻ hành hạ tôi
thì tôi nghĩ không được đúng lắm đâu. Có đấy, nó nằm trong sự thật mà
bạn thấy qua những dữ kiện được trình bày bằng cái nhìn lạnh lùng. Sự
thật đã được phơi bày thì mọi bình luận về nó là thừa, làm hỏng điều
mình muốn nói.
Khi
nhìn lại sự việc trong quá khứ cái nhìn nào cũng chứa đựng sự bao dung
trong vô thức, không nhiều thì ít, với người nào cũng vậy. Không ai có
thể mãi mãi khư khư ôm thù hận trong lòng trong suốt cuộc đời. Tôi nhớ
có đọc đâu đó một nghiên cứu khoa học về một đặc tính của não bộ con
người – nó bao giờ cũng giữ lại những kỷ niệm tốt đẹp và quên đi những
việc xấu.
Tôi
hiển nhiên là nạn nhân của hai tên độc tài Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, như
nhiều bạn cùng thời tôi biết rõ, hay ít ra thì cũng biết nhiều hơn những
người chỉ đọc những bài tụng ca các lãnh tụ anh minh. Nhưng khi đã lùi
xa khỏi sự kiện, tôi mới thấy cả hai người (hay quỷ) này xét cho cùng
cũng là một thứ nạn nhân – nạn nhân của sự ham hố quyền lực và danh
vọng, chúng chỉ không hiểu rằng chúng là nô lệ của sự ham hố ấy. Vô vàn
tội ác của chúng cũng từ sự ham hố ấy mà ra. Chửi bới những tên nô lệ tự
nguyện ấy là hạ mình xuống chỗ đứng của chúng.
Khi
“quân dữ” (tôi mượn từ Thiên Chúa giáo) hùng hổ xông vào tôi khi tôi
đang đi giữa đường, quẳng tôi lên xe, đưa tôi vào thẳng Hoả Lò, nhà tù
nằm giữa lòng thành phố, rồi tiếp tục cuộc hành hạ tôi chín năm, tôi
thấy lòng mình hoàn toàn yên tĩnh nhờ sự biết trước rằng chúng không thể
hành xử theo cách nào khác với bản chất của chúng.
Khi ấy, tôi chợt nhớ tới mấy vần thơ của Puskhin:
Đừng cười nhé nỗi buồn anh thấy trước
Anh biết đòn số mệnh chẳng buông tha
Mái đầu xanh em vẫn hằng ve vuốt
Từ ngực em sẽ tới pháp trường xa…
(A.S. Pushkin)
Tôi
không phải người biết làm thơ, nhưng trong những ngày tù đằng đẵng của
mình, tức cảnh sinh tình, tôi cũng ghi lại mấy dòng giống như thơ sau
đây:
Kiệt lực qua thập điện khổ đau
Tôi lử lả tiến công vào cái Ác
Trong đêm giữa ban ngày
Với vũ khí trong tay
Chỉ một ngọn bút cùn thay lưỡi mác
Tôi ngã xuống trong lốc bụi chiến trường,
Phút hấp hối còn mang mang nghe tiếng nhạc.
Thì ra máu của tim mình
nhỏ xuống
đất cằn
Và đất lên giọng hát
Bài hát của niềm tin
Từ trái tim tôi rách nát.
2.3.2018 (Theo Facebook)