Từ giữa năm 2010, tác giả tự sơ lược tiểu sử khi tham dự Viết Về Nước Mỹ: Trước 75, còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990. Hiện ngụ tại Myrtle Beach, SC. Bài mới của Hải Âu cho giải thưởng năm thứ mười hai là một chuyện tình chia lìa vào Tháng Tư 1975.
Tôi sinh ra ở Huế. Cái tên “Trần Thị Huế” cha mẹ đặt cho khiến tôi biết rõ điều đó nhưng chưa bao giờ tôi cảm nhận được mình là người con gái của miền sông Hương, núi Ngự. Vừa đầy năm tôi đã rời Huế. Vì công tác đặc biệt, bố tôi phải thuyên chuyển nhiều nơi. Tuổi thơ của tôi trải dài khắp miền Trung nước Việt: từ Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết, Mũi Né, Long Hương… Nhưng gắn bó với tôi nhất là Quảng Trị- vùng địa đầu của vĩ tuyến 17, chia đôi đất nước Việt Nam.
Tại Quảng Trị các chị em tôi đều được vào học ở trường công lập của thị xã. Riêng tôi không hiểu vì lý do gì lại vào học ở trường Công Giáo Tê-Rê-Sa - được sự chăm sóc, dạy dỗ thương yêu của các Cha và các Soeur. Lớp học được chia làm hai dãy bàn - một bên dành cho con trai và một bên dành cho con gái. Tuy là học sinh ngoại đạo, ở trường tôi cũng được học giáo lý như các học sinh khác. Mẹ tôi không phản đối nhưng mỗi tối khi tôi ê a:
-Tê…Rê…Sa…Trần …Thị…Huế…bởi đâu mà có?
- Thưa, bởi Chúa!
Là mẹ tôi càm ràm.
Tôi thích những giờ học Giáo lý vì bọn học trò con trai lười học, không bao giờ thuộc bài. Bọn con gái chúng tôi chăm chỉ nên bao giờ cũng được ký đầu – hình phạt mà các Cha, các Soeur thường dành cho bọn con trai về tội lười biếng. Tôi tuy nhỏ con nhất lớp nhưng mỗi lần được trừng phạt bọn con trai thì phải biết - nhón chân, bậm môi, giáng tay thiệt mạnh. Bọn con trai “thù” chúng tôi lắm, hăm he đón chúng tôi sau giờ học trả thù cho bõ ghét.
Ở đây tôi còn có nhỏ bạn thân ở gần nhà. Ba mạ nó là chủ rạp ciné duy nhất ở thị xã. Nó hay dẫn tôi đi xem phim Ấn Độ, không phải trả tiền. Mỗi lần coi phim hai đứa khóc sướt mướt vì tình tiết éo le trong phim. Tôi mê lắm! Nhiều hôm đang trông em bé cho mẹ đi chợ, nghe nó rủ rê tôi xách luôn con bé theo. Nhỏ bạn tôi la chí choé:
- Mạ mi sanh nhiều quá! Mi bế em vẹo cả lưng, không lớn nổi.
Nó la thế nhưng tôi biết nó thương tôi lắm! Tôi nhe răng cười khì rồi xốc em chạy vội theo nó.
Lần đi xa Huế nhất của mẹ là khi bố tôi được thuyên chuyển vào Saigon. Tôi biết mẹ buồn vì xa xôi quá! Làm răng về thăm ôn mệ nì.
Bọn con nít cũng buồn xo nhưng ba chữ “đi Saigon” với chúng tôi lúc đó ghê gớm lắm. Chúng tôi bịn rịn chia tay, dặn dò nhau đủ thứ.
Vào Saigon, học xong bậc tiểu học tôi thi đậu vào đệ thất của một trường Nữ Trung Học nổi tiếng với đa số là con gái Bắc Kỳ. Hàng xóm, bạn thân của tôi lại là người miền Nam. Tôi mất dần “gốc” Huế của mạ. Tôi thích thức ăn phong phú của người miền Nam mà nhiều lần mẹ tôi phải gắt lên: “Món mô cũng cho nước dừa!”
Lên đệ ngũ tôi bắt đầu tập tễnh làm thơ, viết văn. Cùng mấy nhỏ bạn thành lập Thi văn đoàn “Mắt Tím”. Tôi vẫn là cô bé ngoan đạo
ngày nào ở trường bà Soeur. Hàng tuần tới họp bạn ở tòa soạn báo Tuổi Hoa trong nhà thờ Chúa Cứu Thế, quỳ bên tượng Đức Mẹ tôi
lại nhớ đến hình ảnh của Ma Soeur với gương mặt xinh đẹp rạng rỡ, nụ cười tươi tắn, hiền lành giữa đồi sim tím trong một dịp chúng tôi được viếng thăm Nhà Thờ La Vang - nơi Đức Mẹ hiện ra. Không hiểu sao hình ảnh Soeur của buổi chiều hôm ấy vẫn đầy ắp trong tim, sâu đậm trong lòng tôi như thế.
Saigon - mảnh đất miền Nam trù phú đã giúp gia đình tôi an cư lạc nghiệp. Mẹ tôi thỉnh thoảng cùng các chị lớn về Huế thăm ông bà ngoại, hoặc bố tôi đón ôn mệ vào Saigon chơi dăm ba tháng. Riêng tôi, vẫn chưa một lần được về thăm Huế.
Sau kỳ thi Tú Tài đôi, cuộc đời nữ sinh chúng tôi chia thành bao ngả rẽ vào đời. Năm đầu của đại học, những hôm không có giờ lên lớp chúng tôi đứa ở Văn Khoa, đứa ở Dược Khoa, đứa ở Nông Lâm Súc gọi nhau ơi ới, rủ nhau phóng xe Honda về thăm trường cũ. Lại cùng nhau sà xuống ăn quà trước cổng trường, ríu rít kể chuyện học hành mới. Dường như chúng tôi vẫn chưa quên được những tháng ngày nữ sinh hoa mộng cũ. Một nhỏ bạn thân rẽ đàn, hoan hỉ báo tin “theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
Tôi gặp chàng trong tiệc cưới nhỏ bạn. Buổi party lớn đầu đời tôi vẫn còn vụng dại và phải cố vấn bà chị trước một tuần.
Thế mà hôm đó vừa trông thấy tôi bước vào buổi tiệc, nhỏ bạn nhăn mặt kêu lên:
- Đi đám cưới tao mà mi mặc soiré đen? Trông mi cứ như mấy bà Soeur!
Thấy nhỏ bạn giận dỗi tôi hơi hối hận. Cũng bởi cái tội “ngoan cố” cãi lời bà chị.
Khi nhạc khiêu vũ trỗi lên, cô dâu, chú rể rồi từng cặp dìu nhau ra sàn nhảy. Cảm thấy lạc lõng tôi lặng lẽ rời đám đông ra sân thượng đứng nhìn trăng sao. Trời Saigon ban đêm mát rượi. Nhìn xuống chiếc soiré màu đen của mình, tuy lạ lùng nhưng một cảm giác rất yên ổn trong tôi. Có tiếng động khẽ và chàng xuất hiện mỉm cười:
- Bé đứng đấy không lạnh à? Vào trong khiêu vũ cho vui.
Tôi lắc đầu cười nhẹ - nụ cười hớp hồn chàng ngay. Chúng tôi quen nhau như thế. Sau này yêu nhau tôi hỏi:
- Ngày đó sao anh thích em? Em chẳng có gì đặc biệt cả.
Anh dí tay xoa nhẹ lên cánh mũi đang chun lại của tôi:
- Vì bé là “bông hồng đen” của đêm hôm ấy.
Rồi anh khe khẽ hát: “Em như một nụ hồng, mà ta hằng ngại ngùng…”
Đi chơi với chàng tôi vẫn mặc áo dài. Tôi thích loại áo dài tơ lụa mềm mại màu ngà có gân hình những bông hoa cúc mà một thời chúng tôi đã “làm mưa làm gió” ở Trưng Vương, khiến các nam sinh trường bạn cứ ngẩn ngơ “trông vời áo tiểu thư”. Mỗi lần đón tôi ở cổng trường Văn Khoa, chàng hay đùa:
- Đón bé ở Văn Khoa mà cứ tưởng đón cô bé nào ở Trưng Vương chứ!
Tình yêu đang nồng nàn trên mắt trên môi thì một ngày giữa tháng tư 75, vừa gặp nhau chàng buồn rầu bảo tôi:
- Tình hình không yên ổn em ạ! Gia đình anh đang chuẩn bị rời khỏi Việt Nam. Em đi với anh nhé!
Tôi hụt hẫng:
- Chúng mình chưa làm đám cưới. Em không thể theo anh được.
Tôi biết bố anh có Công ty Xuất Nhập Cảng làm việc ở ngoại quốc nên biết rõ tình hình ở Việt Nam lúc bấy giờ và có điều kiện ra đi sớm. Ngày ra phi trường Tân Sơn Nhất, anh còn điện thoại khẩn khoản:
- Em chỉ cần nói một tiếng, anh sẽ ở lại…
Tôi hốt hoảng:
- Không! Anh cứ đi. Chúng mình sẽ gặp nhau. Gia đình em cũng đang chuẩn bị. Bố em chưa thể rời nhiệm sở lúc này.
Nhưng giờ phút chót của ngày định mệnh ngổn ngang trăm mối ấy, toàn bộ gia đình tôi đã bị kẹt lại.
Cuộc sống khốn khó với tù đày, đi kinh tế mới sau 75 khiến tôi chưa kịp đau đớn với mối tình đầu tan vỡ đã phải mạnh mẽ đứng dậy để đối phó với hoàn cảnh đen tối trước mắt. Tôi đến trường học tập, sinh hoạt chính trị nhưng Văn Khoa giải thể chứng chỉ đang theo học. Tôi được chuyển sang Sư phạm. Xét lý lịch phải “ ba đời không dính líu tới ngụy” vì lợi ích “trăm năm trồng người”, Sư phạm chuyển tôi đi kinh tế mới.
Anh ơi! Làm sao biết được
Ngày mai đời em ra sao?
Mà mắt bây giờ vẫn ướt
Khóc cho nỗi buồn ngọt ngào
(TT Nguyệt Mai)
Bố và các anh rể tôi lần lượt bị tập trung đi học tập cải tạo. “Ngôi nhà không có đàn ông” trở nên thê lương, ảm đạm. Những người mẹ hiền, vợ trẻ lâu nay ở nhà chăm sóc gia đình, con cái bỗng nhiên đổ xô ra đường bươn chải, lo toan cơm áo.
Ngày bố từ giã gia đình đi cải tạo, nhìn ánh mắt đau buồn của bố tôi chợt nhớ đến những ngày thơ ấu ở Quảng Trị. Cuối tuần, bố thường chở chị em chúng tôi ra thăm bạn bè của bố ở tận Đông Hà. Đứng bên này cầu Hiền Lương nhìn sang bên kia vĩ tuyến 17, bố bảo với chúng tôi:
- Ông bà nội, các bác, các chú ở bên đấy!
Rồi bố thở dài, ngậm ngùi:
- Khoảng cách không bao xa mà không thể gặp được nhau.
Ngày nay nhịp cầu Hiền Lương đã nối liền hai miền Nam Bắc nhưng vẫn không có nhịp cầu nào nối liền trái tim giữa những người anh em ruột thịt của hai miền đất nước.
Ông bà nội tôi đã mất trước ngày 30 tháng 4 -75. Gặp lại bác và các chú khi gia đình tôi trong hoàn cảnh đau thương, tan nát, sao lòng tôi dửng dưng lạ thường. Mẹ tôi mở lời nhờ các chú ký tên bảo đảm trên các tờ lý lịch để chúng tôi được đi học, đi làm. Trong tôi dấy lên chút tình máu mủ và chua xót khi nghe chú nói nhỏ với mẹ:
- Em chỉ ao ước có cái đài, cái xe đạp thôi chị ạ!
Bao năm hy sinh, gian khổ chiến đấu để “giải phóng” đất nước, lý tưởng của người cộng sản chỉ có thế thôi sao?
Tôi như bơ vơ giữa dòng đời nghiệt ngã, bỏ học đi làm. Mỗi khi ngang qua trường cũ, tôi lại ngậm ngùi.
Dù những cánh thư anh gởi về vẫn đầy hứa hẹn thương yêu, kèm theo tấm ảnh chàng vẽ tôi: “ tóc dài tung bay theo gió, vạt áo lụa trắng ươm trong nắng vàng” và với hàng chữ bên dưới “Em hiền như Ma Soeur” thì thời gian vẫn là phương thuốc nhiệm mầu của sự chia lìa, xa cách.
Mà anh, mưa mãi, mưa hoài
Em sợ một ngày phôi phai
Phù sa tình ta trôi mất
Theo cơn mưa lũ hôm nay…
(TT Nguyệt Mai)
Tôi đã nghe lời chàng quên nhau thôi. Quên đi những ngày tháng cũ với bao mộng đẹp, để có thể tiếp tục sống trong những ngày đen tối, tuyệt vọng.
Tôi qua Mỹ khá muộn màng. Khoảng cách giữa tôi và chàng bây giờ không phải là bờ đại dương bao la, xa thẳm mà là một mái ấm hạnh phúc nhỏ.
Khi mái tóc điểm sương tôi muốn tìm về Saigon xưa. Saigon với “con đường Duy Tân cây dài bóng mát”. Saigon với tình yêu đầu đời lãng mạn, trong sáng, thơ ngây “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”. Saigon với những kỷ niệm của “Một thời để yêu, một thời để nhớ.” Tất cả nay còn đâu? Saigon đã đổi thay với những con người vô cảm. Giá trị nhân phẩm, đạo đức suy đồi. Thế hệ trẻ bị ru ngủ bởi vật chất, ăn chơi sa đọa. Đứng giữa Saigon như đang đứng một nơi xa lạ, không phải trên chính quê hương của mình.
Tôi sinh ra ở Huế. Chưa một lần được biết về Huế. Nhờ sợi dây rốn mạ quên cắt tôi vẫn nhớ thương Huế da diết. Mơ ước một ngày đất nước được tự do, dân chủ thật sự, tôi về thăm Huế. Để được khua nhịp guốc trên cầu Trường Tiền “sáu vài, mười hai nhịp”. Để được cảm nhận thế nào là “Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn…”
Có khoảng không gian nào đo được chiều dài nỗi nhớ trong tôi?
Hải Âu