Đó là một ngôi nhà kiểu cổ khá
rộng, nền xây cao, nằm giữa một khu vườn vuông vức ước hơn một mẫu tây. Trước
nhà được xây một bức bình phong. Gần bức bình phong đặt một bể chứa nước có đặt
một hòn non bộ bên trong. Bên cạnh đó, một khoảnh sân rải toàn sỏi nhỏ trắng
như muối, được đặt nhiều tảng đá lớn nằm nhấp nhô, có người nói chủ nhân đã sắp
xếp chúng theo dạng "bát trận đồ" của Khổng Minh thời Tam Quốc.
Khu vườn được ngăn cách với bên ngoài bằng những bức tường thành xây lâu
năm quét vôi trắng nay đã trở thành màu vàng ố lẫn với màu rong rêu, mặt ngoài
nhiều chỗ đầy dấu vết bôi vẽ của trẻ con hoặc dây leo bám vào bị dứt ra. Một
vài chỗ tường đã bị sụt lở, những người tác cao đứng ngoài đường có thể nhón
chân nhìn vào bên trong được. Mặt trước vườn tiếp giáp với con đường rộng, một
trong những con đường giao thông chính của huyện Thiêu Quan. Ngõ vào nhà có hai
bức cửa bửng lớn bằng gỗ, khi mở banh ra, hai cỗ xe ngựa có thể đi ngược chiều
nhau được.
Nhưng bà thứ thất này phúc bạc,
bị Tổng đốc phu nhân cho người đầu độc chết cùng với một số kẻ ăn người ở trong
nhà. Từ đó, người ta đồn trong nhà này hay có ma hiện hình quấy phá ban đêm nên
ai cũng ngán.
Tiếng đồn quái ác đã làm ngôi nhà
bị bỏ hoang một thời gian khá lâu không ai dám mướn dám mua, có lẽ đã hơn ba
mươi năm.
Mới đây, ngôi nhà này được ông
tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc mua lại. Ông cho dọn dẹp, sơn quét, sửa sang lại cẩn
thận. Nghe đâu ông tướng định để dành cho một người khách đặc biệt của ông ở.
Người dân địa phương rất hồi hộp,
tò mò chờ đợi những chuyện gì sẽ xảy ra.
Cũng bắt đầu từ đó, gần ngôi nhà
ấy được chính quyền thiết lập mấy bót quân sự nhỏ. Dân địa phương bàn tán các
bót này lập nên mục đích để canh chừng an ninh cho ngôi nhà. Theo họ, có lẽ
người khách đặc biệt của tướng Lưu Vĩnh Phúc là một nhân vật quan trọng.
*
Vào một buổi chiều, có một đoàn
người đi xe ngựa đến ngôi nhà này. Người cầm đầu là một ông già dáng vẻ đường
bệ, gương mặt quắc thước, khắc khổ. Toán đi theo gồm tám người đàn ông, hầu hết
ở tuổi trung niên, người nào cũng mang vẻ mặt trầm tư...
Người đưa họ đến có lẽ là người
nhà của Lưu tướng quân. Ông này chỉ dẫn, dặn dò họ khá lâu trước khi từ giã.
Trong khi mọi người lo việc sắp
xếp nơi ăn chốn ở thì ông già cùng một người khác đi quanh khắp sân trước vườn
sau để quan sát cẩn thận. Ông già dừng lại khá lâu ở khoảnh sân nơi có bố trí
những tảng đá "bát trận đồ", mặt đăm chiêu nghĩ ngợi...
Hôm sau, có mấy viên chức địa
phương đến thăm viếng ông già. Vị nào cũng tỏ vẻ lễ phép, cung kính với ông ta.
Sau này, còn nhiều người khác nữa, có nhiều vị là quan lớn, vẫn thỉnh thoảng
ghé vào ngôi nhà này. Nhưng ông già gần như lúc nào cũng giữ vẻ nghiêm nghị đến
lạnh lùng, khiến có vài người khách gọi lén với nhau là "ông già đau khổ".
Dần dà người ta biết được rằng
ông già chính là một vị đại thần rất nổi tiếng của triều đình Việt Nam, nguyên
là Thượng thư Bộ Binh, tổng chỉ huy Quân Đội nước Việt Nam, một lân bang một
thời cường thịnh ở phía nam Trung Hoa, đó là ông Tôn Thất Thuyết. Ông đã thất
trận và rời khỏi Việt Nam
chưa lâu lắm.
Trước sức mạnh quân sự của Pháp,
quân đội Việt Nam đã hoàn toàn tan rã. Việt Nam đã bị quân đội Pháp chiếm đóng
toàn bộ. Nhưng nhiều nhân sĩ Việt Nam không chịu khuất phục, vẫn cố
gắng qui tụ những người yêu nước đứng dậy chống Pháp. Vị vua chính thống của
Việt Nam
là đức Hàm Nghi đang lẩn trốn vào vùng rừng núi phía bắc miền Trung để tiếp tục
lãnh đạo toàn dân toàn quân kháng chiến phục quốc.
Trong khi đó, người Pháp lập lên
một vị vua khác làm bù nhìn để phủ dụ lôi kéo lòng người, đó là vua Đồng Khánh.
Sau khi kinh thành Huế thất thủ,
quân Việt phải rút về lập chiến khu ở các vùng rừng núi. Tôn Thất Thuyết nhận
thấy quân kháng chiến không thể nào đủ sức đương cự với quân Pháp vượt hơn hẳn
về mặt vũ khí tối tân. Nhất định phải tìm dựa vào một thế lực bên ngoài mới có
hi vọng đảo ngược tình thế. Ông Thuyết đã nghĩ đến Trung Hoa, nước mới đây đã
gởi quân sang giúp Việt Nam
trong thời kỳ Pháp đánh Bắc Kỳ. Ông vẫn còn tin ở sức mạnh của Thanh triều.
Nhưng muốn sang cầu viện Trung Hoa, phải có một người đủ tư cách đại diện, hiểu
biết tình hình tổng quát và có khoa ăn nói. Đó là một việc hết sức khó khăn lúc
ấy vì những người có khả năng, nặng tình với đất nước phần đông đã tử tiết hoặc
đã tản mác về những nơi hẻo lánh rất khó tìm. Bất đắc dĩ, và để cho chắc ăn,
ông Thuyết phải thân hành đóng vai sứ giả.
Trên đường hành trình sang Trung
Hoa, Tôn Thất Thuyết đã ghé qua nhiều căn cứ kháng chiến để quan sát tình hình,
vận động cổ võ tinh thần, góp ý xây dựng với các thủ lãnh địa phương. Ông sắp
đặt cho người phụ tá thân tín Trần Xuân Soạn ở lại lãnh đạo kháng chiến khu vực
Thanh Hóa. Ông cũng gặp các lãnh tụ kháng chiến khác như Cầm Bá Thước (Thái) ở
phủ Thường Xuân, Hà Văn Mạo ở châu Quan Hóa (Mường), Điêu Văn Trì (Thái) ở vùng
núi rừng Sơn La, Lai Châu... để chỉ thị một đường lối kháng chiến thống nhất.
Trong thời gian này, vua Đồng
Khánh đã hai lần xuống chiếu tha tội cho ông, kêu gọi ông về sống ở nguyên quán
chỉ với một điều kiện là phải từ bỏ ý đồ chống Pháp. Nhưng ông nhất định không
nghe.
Đầu năm 1887, ông đã đến Vân Nam
rồi sang Quảng Đông. Ông được đón tiếp nồng hậu, nhất là trong giới người Hoa
vốn căm thù người da trắng vì các vụ xâu xé lãnh thổ Trung Hoa trước đây. Thấy
tình hình có vẻ lạc quan, ông phấn khởi vận động xin giúp đỡ tiền của để mua vũ
khí gởi về giúp phe kháng chiến trong nước cũng như chiêu tập được một số kiều
dân yêu nước ở biên giới tham gia các tổ chức hậu thuẫn. Trong bước đầu với hi
vọng tràn trề như thế, ông gởi một bài thơ về cho tộc trưởng người Thái là Cầm
Bá Thước đang chỉ huy kháng chiến ở châu Thường Xuân, trong đó có đoạn:
"Trăm họ giúp vua đang cố gắng,
Một
thân vì nước đang long đong
Phen
này nếu được lòng trời giúp
Quay
gót về nam lối hẳn thông"
Nhưng rồi hoạt động của phái đoàn
sứ giả Việt Nam không qua mắt được bọn tình báo của Pháp. Lập tức, tòa Đại sứ
Pháp ở Bắc Kinh liền gởi kháng thư lên Thanh triều phản đối việc dung dưỡng
người Việt chống Pháp trên đất Tàu.
Lúc bấy giờ Thanh triều sợ liệt
cường phương Tây và Nhật như bò sợ cọp. Vì thế, họ phải chiều ý Pháp, không
những quay lưng trước sự cầu cứu của phái đoàn Việt Nam, triều đình còn chỉ thị
cho các chính quyền địa phương ngăn cấm mọi sự giúp đỡ có tính cách quân sự cho
phái đoàn này.
Tuy thế, nhờ sự yểm trợ ngầm của
tướng Lưu Vĩnh Phúc, ông Thuyết vẫn tích cực hoạt động, xây dựng được nhiều
toán võ trang ở vùng biên giới Hoa Việt.
Tháng 6 năm 1892, ông Thuyết cho
một đội quân do Vũ Thái Hà chỉ huy tiến đánh quân Pháp ở Bình Hồ, Mống Cái, hợp
với lực lượng của các ông Tiên Đức, Vũ Ôn Bảo, Lương Phúc kiểm soát được toàn
lưu vực sông Tiên Yên từ Hoành Mô xuống tới ven biển. Việc này kéo dài cho đến
năm 1893, làm cho người Pháp vô cùng lúng túng. Nghĩa quân Việt Nam ở biên giới
Hoa Việt ngày càng lớn mạnh thấy rõ.
Nhưng rồi cuộc chiến tranh Trung
Nhật đã xảy ra năm 1894 ở vùng Đông Bắc Trung Hoa. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương
thấy Trung Hoa đang lấn cấn bèn lợi dụng cơ hội ấy để gây áp lực. Họ yêu sách
Trung Hoa phải tảo trừ nghĩa quân Việt Nam ở biên giới Hoa Việt. Thanh
triều sợ nếu cứ để cho nghĩa quân Việt Nam
trú ẩn ở biên giới có thể làm cho Pháp nổi giận mà mở thêm một mặt trận nữa nên
ra lệnh khóa chặt biên giới đồng thời bắt giết một số thủ lãnh nghĩa quân Việt Nam đang nương
náu trên đất Trung Hoa. Chính phủ Pháp ở Đông Dương cũng yêu cầu Trung Hoa quản
thúc Tôn Thất Thuyết và theo dõi cô lập tướng Lưu Vĩnh Phúc.
Thế là ông Thuyết bị đưa về sống
ở huyện Thiêu Quan từ đó.
Người Thanh vì lo bảo vệ chính
họ, đành hi sinh ý nguyện chí thiết của một quốc gia chư hầu có tình môi răng
khăng khít với họ ngót hai trăm năm qua.
Trong một công điện của Tổng Đốc
Lưỡng Quảng Trương Chí Long phúc đáp Sứ Quán Pháp về việc quản thúc "sứ
giả Việt Nam Tôn Thất Thuyết" viết rõ như sau:
"Gần đây một vị thượng quan
An Nam tên là Tôn Thất Thuyết cùng với mười kẻ phụ tá có đệ lên triều đình
chúng tôi một văn kiện than phiền sự ngược đãi của người Pháp trên đất An Nam
để tâu lên hoàng đế. Nhưng bản chức đã... ra lệnh phát cho họ hàng tháng một số tiền là
57 lạng bạc 36 xu, ủy cho viên đại tá quân vụ thị trấn Quảng Đông giam họ.
Nhưng việc giam giữ họ giữa thành
phố này cũng có nhiều trở ngại nên bản chức đưa họ về Long Châu để các nhà chức
trách dân-quân-chính tỉnh này trông coi... Bản chức cho họ biết không được tăng thêm số
người tòng vong dù cớ nào. Họ không được tính toán việc gì từ nay và cấm không
được ra khỏi thành phố...".
*
Đã không được người Thanh giúp
đỡ, lại còn bị họ theo dõi, ngăn cấm mọi hoạt động, ông Thuyết vô cùng đau khổ.
Trong khi đó, những tin tức không
tốt từ quê nhà nườm nượp bay sang:
Ngày 26 tháng 9 Mậu Tý (1888),
vua Hàm Nghi bị tên Trương Quang Ngọc làm phản bắt đem nộp cho Pháp. Người con
của ông là Tôn Thất Thiệp đang làm nhiệm vụ bảo vệ vua Hàm Nghi bị giết.
Tiếp đó, người con khác của ông
là Tôn Thất Đạm đang chỉ huy quân Cần Vương ở Hà Tịnh, nghe tin vua Hàm Nghi bị
bắt bèn tập họp thủ hạ lại, viết hai lá thư, một để dâng vua Hàm Nghi xin tha
tội vì không bảo vệ được ngài, một gởi cho cấp chỉ huy Pháp xin cho các thuộc
hạ của ông được đầu thú về quê làm ăn. Sau đó ông tự tử.
Năm 1895, ông Phan Đình Phùng
lãnh tụ phong trào Văn Thân mất, phong trào Văn Thân tan rã.
Những sự kiện đó đã làm cho ông
Thuyết càng xuống tinh thần.
Cứ mỗi buổi chiều, "ông già
đau khổ" lại mang gươm dạo sân. Hình như tôn trọng sự đau khổ của người
trên, để cho ông được yên tĩnh, những lúc ấy, thuộc hạ của ông không ai lai
vãng quanh đó. Gương mặt ông già lúc nào cũng cau có, không hề có sắc cười. Có
khi ông cúi gầm mặt suy tư bước từng bước một, chốc chốc lại buông tiếng thở
dài. Có khi ông hậm hực, bước xăm xăm, gươm cầm tay lăm lăm, miệng lẩm bẩm gì
không ai biết, rồi bất thần chém chan chát vào những tảng đá trong sân.
Ban đầu việc ông chém đá chỉ
thỉnh thoảng xảy ra. Nhưng dần dần ông chém đá thường hơn. Một thời gian sau,
việc chém đá thành lệ vào mỗi buổi chiều. Ông già cứ tiếp tục dạo sân và nhiều
tảng đá cứ dần vỡ ra. Sau khi ông già vào nhà thì một thuộc hạ lại ra dọn dẹp
những mảng đá vỡ.
Thấy hành động lạ lạ của ông già,
ban đầu có vài người khách qua đường tò mò dừng chân lại nhìn. Rồi mỗi ngày mỗi
đông người chú ý theo dõi chuyện đó, nhất là bọn trẻ con, có khi họ tụ tập cả
đám đông đến nghẽn đường. Nhưng ông già chẳng bao giờ để ý đến họ. Ông cứ bước,
cứ lẩm bẩm, cứ chém, chẳng ngó ngàng đến ai, nhiều khi đến tối ông mới trở vào
nhà. Dần dần một cái tên mới người ta đặt cho ông già trở thành thông dụng: "Đả
Thạch Ông".
Tuy hành động của "Đả Thạch
Ông" có vẻ như điên dại, nhưng người ông vẫn toát ra một vẻ gì oai nghiêm
dũng liệt khiến cho những kẻ nghịch ngợm và trẻ con vẫn không bao giờ dám trêu
ghẹo đến ông. Rất nhiều người xem Đả Thạch Ông chém đá đến thành ghiền, ngày
nào cũng thu xếp thì giờ đến xem.
Một lần, sau khi hậm hực chém bể
một tảng đá, có lẽ "Đả Thạch Ông" thấy gươm bị móp mẻ chi đó, ông
bước lại một tảng đá khác đặt xuống mài. Hôm ấy mặt trăng lên sớm. Đả-Thạch-Ông
mài gươm xong ngước mặt lên chợt nhìn thấy trăng, tự nhiên cảm khái, ông ngâm
lên bài thơ Thuật Hoài của chí sĩ Đặng Dung đời Trần:
"Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma!"
Không nhớ vị
nào đó đã dịch ra như sau:
"Cuộc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng thất thế ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gội sông trời khó vạch mây
Thù nước chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài dưới nguyệt biết bao rày!"
Có lẽ nỗi
đau của người xưa đã quyện lẫn với nỗi đau hiện tại của ông, khiến giọng ngâm
của ông trở nên bi tráng lạ thường. Tuy mỗi thời mỗi khác, nhưng khí hùng nào
đã bị uất nghẹn khi thoát ra được đều có thể bốc thấu trời xanh. Cái hơi hướm
bi tráng ấy dữ dội đến nỗi những người dân địa phương vốn bất đồng ngôn ngữ,
không biết ông già ngâm gì cũng cảm nhận được nỗi đau lòng toát ra từ trong những
lời ngâm ấy. Ai nấy đều bồi hồi xúc động...
Đây là lần
đầu tiên người dân địa phương nghe ông già lạ lùng này chính thức lên tiếng
trong một lúc cảm khái.
Sợ cầu cứu
Thanh triều không nên việc, ông Thuyết có thể tìm cách về nước lãnh đạo kháng
chiến trở lại, người Thanh phải chiều ý người Pháp, quản thúc ông rất nghiêm
ngặt. Ông Thuyết chỉ được tự do trong phạm vi được chỉ định của ông. Mỗi bước
ra ngoài của ông đều bị theo dõi quấy rầy ráo riết. Việc này đã đẩy ông Thuyết
ngày càng trở nên bất bình thường. Ông không những chỉ phẫn hận giặc Pháp cướp
nước mà còn phẫn hận cả người Thanh phản bội đồng minh. Họ đã cam đành bán đứng
những lực lượng kháng chiến Việt Nam để làm vừa lòng người Pháp.
Quá đau khổ,
có một thời gian ông Thuyết đã chúi đầu vào tìm quên ở nàng tiên nâu. Nhưng rồi
ông lại tỏ ra hối hận quyết chừa, thể hiện qua mấy vần thơ ông làm như sau:
"Thù nước hẹn ngày thề trả sạch
Tuổi già nhiều bệnh quyết lo chừa
Lời gởi nước non khách đồng chí
Thân này dẫu mệt dám đâu lơ!"
Nỗi phẫn hận
đã khiến tinh thần ông thêm điên loạn vào những ngày cuối đời. Ông đã chém tả
tơi hầu hết những tảng đá trong sân. Người phụ trách việc dọn dẹp không còn
tinh thần để làm việc chu đáo nữa. Đá vụn bấy giờ đã rải tóe ra khắp nơi. Nhưng
mỗi buổi chiều Đả Thạch Ông vẫn tiếp tục hành hạ chúng...
*
Cả tháng
nay, Đả Thạch Ông thấy trong người luôn mệt mỏi. Đã nhiều đêm ông thức trắng,
chân tay ông dường như rã rời hết. Nhưng theo thói lệ gần đây, mỗi chiều ông
vẫn gắng dạo sân chém đá.
Buổi sáng
ấy, Đả Thạch Ông gượng giở tập Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên ra đọc
giải khuây, bỗng thấy mắt hoa tai ù, ông gục mặt lên sách tạm nghỉ...
- Tướng quân
sức khỏe bất an chăng?
Nghe tiếng
người hỏi, Đả Thạch Ông ngẩng mặt nhìn ra. Ông thấy hai người lạ dáng vẻ đường
bệ đang bước vào. Điều kinh dị là có một người mặc áo hoàng bào, vị kia thì mặc
đồ võ quan, đều là kiểu y phục Việt Nam. Đả Thạch Ông cảm thấy bối rối đứng dậy
chắp tay vái chào:
- Thuyết này
xin thất lễ, không biết quí vị là ai? Đến đây có việc gì dạy bảo?
Hai người
khách cũng vái chào đáp lễ. Người mặc hoàng bào nói:
- Một hội
một thuyền cả, xin Tướng quân đừng khách sáo! Chắc Tướng quân chưa rõ, ta chính
là Hồ triều Thái thượng hoàng Quí Ly đây!
Đả Thạch Ông
hết sức kinh ngạc, miệng há hốc...
Người mặc đồ
võ quan tiếp lời:
- Vâng, ngài
đây chính là Thái thượng hoàng Hồ Quí Ly. Ngài là một vị vua có rất nhiều sáng
kiến cải cách đất nước, tiếc rằng lòng trời không giúp nên ngài đành ôm hận bỏ
cuộc nửa chừng... Còn tôi là Bùi Bá Kỳ, nguyên Tì tướng của Thượng tướng quân
Trần Khát Chân, vị anh hùng đã giết được vua Chiêm Chế Bồng Nga vào đời Trần...
Đả Thạch Ông
nhìn hai vị dị nhân kinh ngạc quên cả mời khách ngồi, rồi chợt nhớ ra một điều,
ông hỏi:
- Thưa nhị
vị, những lời nhị vị vừa nói sao khó tin quá! Theo tôi biết, sau khi Thượng
tướng quân Trần Khát Chân mưu sát Thái sư Hồ Quí Ly bất thành thì ông ta bị
giết với tất cả các đồng lõa. Tì tướng Bùi Bá Kỳ may trốn thoát được chạy sang
Tàu. Vậy thì hai vị là kẻ thù không đội trời chung với nhau sao bây giờ lại đi
cùng nhau được?
Viên võ
tướng xưng Bùi Bá Kỳ nói:
- Những điều
Tướng quân nói không sai, nhưng đó chỉ là chuyện ngày xưa. Sau này tôi đã nhận
ra những lỗi lầm do sự suy nghĩ ấu trĩ và ích kỷ của mình nên ân hận lắm.
Đả Thạch Ông
nói:
- Ngài có
thể cho tôi biết ngài đã lỗi lầm như thế nào không?
- Được chứ.
Khi tôi cùng Thượng tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Thái sư Hồ Quí Ly là chỉ
nhắm mục đích cứu nhà Trần thoát khỏi móng vuốt của ông ấy thôi. Nhưng mưu sự
bất thành, tôi may thoát thân được trốn sang Trung Hoa. Thật tình lúc đó tôi
chỉ mong tìm cái sống chứ có ý nghĩ gì khác đâu. Thế nhưng triều đình Trung Hoa
chớp ngay cơ hội này, giả nhân giả nghĩa mềm mỏng dụ dỗ tôi với mục đích khai
thác tìm hiểu nội tình Đại Việt để trục lợi. Khi Thái sư họ Hồ cướp ngôi nhà
Trần, nhà Minh liền tiến hành âm mưu chiếm cứ Đại Việt ngay. Đầu tiên họ lượm
cái tên bá vơ Trần Thiểm Bình mạo danh con vua Nghệ Tôn để làm con bài. Tôi đã cực
lực bác bỏ sự mạo nhận này nhưng vua Minh không nghe. Khi vua Minh định đưa y
về nước, tôi lại phản đối thì vua Minh giận dữ đưa tôi đi an trí ở Cam Túc. Tới
khi Thiểm Bình bị vua Hồ giết, vua Minh vời tôi trở lại và khuyên tôi hợp tác
với họ để kéo quân sang Đại Việt diệt họ Hồ dựng lại họ Trần. Mình ở trong tay
họ, nghe dỗ ngon dỗ ngọt mãi, cuối cùng tôi cũng mềm lòng tin họ có thiện chí
với nhà Trần thật và theo đoàn quân xâm lăng về nước. Bị chiêu bài "Phù
Trần diệt Hồ" gây hỏa mù nên quân dân Đại Việt mất định hướng, sinh ra
chia rẽ. Vì thế, họ Hồ không chống nổi. Nhưng quân Minh vừa chiếm xong Đại Việt
liền trở mặt ngầm tìm tiêu diệt con cháu họ Trần đồng thời cho hủy diệt tất cả
những văn hóa phẩm của Đại Việt một cách tàn tệ. Họ quyết biến Đại Việt thành
quận huyện của họ. Tôi nhắc lại lời ước cũ "phù Trần" nhiều lần nhưng
người Minh cứ lơ đi. Vì thế, tuy được phong chức Hữu Tham nghị, tôi hổ thẹn với
quốc dân không dám làm việc mà quyết lòng tàng ẩn. Khi có mấy vụ nổi dậy của
con cháu họ Trần, người Minh sinh nghi tôi và lại bắt tôi đưa về Kim Lăng. Tôi
đã chết ở đây với bao nỗi ân hận tràn đầy, nhất là vụ theo quân Minh diệt nhà
Hồ. May khi xuống suối vàng gặp lại Thái thượng hoàng đây ngài cũng thông
cảm... nên lòng tôi cũng nguôi ngoai chút ít.
Đả Thạch Ông
nghe đến đây liền chắp tay vái khách một lần nữa:
- Kẻ hậu
sinh thất lễ quá, xin tha tội cho, xin tha tội cho! Xin thỉnh Thái thượng hoàng
ngồi! Xin thỉnh quan Hữu Tham nghị ngồi!
Khách chủ an
vị xong, Thái thượng hoàng Quí Ly nói:
- Tướng quân
vì việc nước mà đến đây, chịu không biết bao nhiêu cay đắng nhục nhằn mà không
kết quả gì. Ta và quan Hữu Tham nghị rất hiểu nỗi khổ tâm của Tướng quân. Tiếc
rằng chúng ta không thể giúp gì cho Tướng quân được, thật xấu hổ lắm!
Đả Thạch Ông
từ tốn thưa:
- Đây chỉ là
việc của vãn bối, có dám đâu để các bậc tiền bối bận tâm!
Thái thượng
hoàng Quí Ly nói:
- Tướng quân
nói thế không đúng. Chúng ta đều là người Việt, Tướng quân tranh đấu cho sự
sống còn của dân tộc Việt thì chính chúng ta cũng chịu ơn Tướng quân rồi. Ngoài
ra, chúng ta với Tướng quân còn có tình nghĩa đồng hội đồng thuyền nữa: những
người cùng vong thân trên đất Tàu. Chúng ta chẳng biết làm gì hơn là xin gởi
đến Tướng quân vài lời khuyên vậy.
Đả Thạch Ông
nghe qua có vẻ thảng thốt:
- Tiền bối
nói sao quả thật vãn bối không hiểu nổi. Chẳng lẽ vãn bối cũng vong thân trên
đất Tàu? Đau đớn đến thế này sao? Ta tuyệt vọng thật ư? _ Ông nấc lên nghẹn
ngào, nước mắt ông ứa ra.
Bùi Bá Kỳ
nói:
- Tướng quân
đừng xúc động! Chết sống là chuyện thường mà!
Đả Thạch Ông
sụt sùi uất nghẹn:
- Vãn bối
từng xông pha trận mạc từ thuở nhỏ, vẫn xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, há sợ
gì chuyện chết? Chỉ hận nỗi là khi ra đi vãn bối đã thề hẹn quá nhiều, gây bao
nhiêu tin tưởng cho mọi người, bây giờ buông xuôi tay trên đất khách âm thầm
thế này ư? Vãn bối tủi hận vì chính mình đã làm cho một dân tộc tuyệt vọng! Ôi
non sông! Ôi Tổ quốc! Ai thấu hiểu lòng ta!
Hồ Quí Ly
thấy Đả Thạch Ông đang bị xúc động cực điểm thì vói tay nắm lấy tay Đả Thạch
Ông lắc mạnh:
- Hãy bình
tĩnh đi nào! Hãy
nghe ta giải thích! Ở đời vẫn thường lẫn lộn rủi với may. Dù nguyện vọng của Tướng quân không đạt, xin chớ lấy làm buồn, vì đó
chính là điều may mắn to lớn cho dân tộc Việt ta!
Đả Thạch Ông chợt cau mặt giận
dữ:
- Thật tiền bối làm cho vãn bối
muốn điên lên được! Tiền bối nỡ nào trêu cợt vãn bối đến thế?
Hồ Quí Ly cười điềm đạm:
- Ta đâu dám chà đạp lên nỗi đau
lòng của Tướng quân! Ta chỉ nói lên một sự thật. Tướng quân hãy bình tĩnh nghe
ta nói đây. Việt Nam
ta là một dân tộc đầy sức sống quật cường. Ta đã từng bị Trung Hoa đô hộ ngót
một ngàn năm mà vẫn đứng dậy được, Tướng quân có thấy dân tộc nào được như thế
chăng? Giặc Pháp từ phương xa đến xâm chiếm nước ta, họ thắng được là nhờ sức
mạnh quân sự. Ta phải tạm thời chịu sự cai trị của họ. Nhưng họ da trắng, ta da
vàng, phong tục đông tây cũng khác biệt nhau nhiều, họ khó lòng mà đồng hóa ta
được. Với tinh thần độc lập mãnh liệt của dân tộc ta, nhất định có ngày con
cháu ta đủ sức mạnh đuổi họ ra khỏi nước. Dù có thể muộn màng hơn, nhưng mình
tự lực giành độc lập thì mình khỏi nợ ai cả. Tướng quân thấy không?
Ông ngừng lại một chốc, nhìn vào
mắt Đả Thạch Ông cho đến khi thấy ánh mắt Đả Thạch Ông có vẻ đồng tình...
- Còn nếu Tướng quân cầu viện
Trung Hoa, cứ giả sử việc thành đi nhé! Chúng ta hãy tưởng tượng khi quân Trung
Hoa ồ ạt đổ sang giúp Việt Nam, đánh bại đuổi được giặc Pháp ra khỏi nước rồi,
chuyện gì sẽ xảy đến với nước ta Tướng quân có dự đoán ra chăng? Mối nợ đó dân
ta sẽ phải trả đến bao giờ mới hết?
Ông lại ngừng lại nhìn thẳng vào
mắt Đả Thạch Ông. Đả Thạch Ông chừng như đang mơ sực tỉnh, ông ta gật gật...
Quí Ly lại tiếp:
- Kinh nghiệm qua lịch sử, chắc
Tướng quân đã rõ người Trung Hoa chẳng bao giờ thành thật với mình hết. Đời Nam
Hán họ mượn cớ cứu Kiểu Công Tiện để tiến quân vào sông Bạch Đằng, may ta có vị
anh hùng Ngô Quyền mới giữ được độc lập. Đời Minh họ lại dùng chiêu bài phù
Trần diệt Hồ rồi khi thành công thì họ diệt sạch con cháu Trần luôn. Chính ta
và quan Hữu Tham nghị đây là nạn nhân của Trương Phụ, tướng lãnh nòng cốt của
chiến dịch phù Trần diệt Hồ. Cũng đời Minh, họ mượn cớ phù Lê diệt Mạc để buộc
Mạc Đăng Dung dâng đất cống vàng mới tha. Qua đời Thanh họ lại dùng danh nghĩa
cứu họ Lê diệt Tây Sơn, khi đoạt được Thăng Long là họ coi vua Chiêu Thống như
đày tớ. May lại có vua Quang Trung đuổi họ đi không thì nợ ấy có thể bây giờ ta
còn phải trả.
Đả Thạch Ông nghe đến đây thì đổi
ra sắc mặt tươi tỉnh:
- Cám ơn tiền bối! Cám ơn tiền
bối! Quả thật sự thất bại của vãn bối là một cơ may của dân tộc Việt Nam. Nếu
không, người Trung Hoa cứ ở miết để bảo vệ cho Việt Nam thì quả thật khó nói. Chính vãn
bối lại là người mang tội đầu tiên! Phải! Mấy đời bánh đúc có xương...
Hồ Quí Ly cười:
- Phải, mấy đời bánh đúc có
xương... Trung Hoa lúc nào mà chẳng muốn nuốt chửng lấy Việt Nam ? Vậy là
Tướng quân khỏi tiếc hận rồi nhé! Phải làm sao cho con cháu ta không bao giờ
còn ai lầm lẫn nữa. Nếu kẻ nào thấy vận nước suy mà nhờ đến người Trung Hoa
giúp đỡ thì chắc chắn đó là kẻ mê mờ, đã uống thuốc độc để mong đỡ khát, đã có
cơ sa chân vào tội bán nước rồi đấy!
Bùi Bá Kỳ cũng cười nói:
- Đúng, kẻ nào dù có thiện ý với
dân tộc đến đâu mà nhờ tới tay người Tàu giúp đỡ thì trước sau kẻ ấy cũng trở
thành kẻ bán nước. Xin mừng cho Tướng quân! Bây giờ chắc Tướng quân thấy rõ
việc cầu viện Trung Hoa thất bại chính là điều đại phước của dân tộc mình chưa?
Vậy từ nay Tướng quân hết tiếc hận rồi nhé!
Nhưng lập tức Đả Thạch Ông trở
lại vẻ buồn bã cố hữu, nói:
-
Đành rằng chuyện cầu viện thất bại đã trở thành điều may mắn, nhưng vãn bối vẫn
còn mang nhiều nỗi oan khuất khác. Như hiện tại trong nước, thánh chỉ nào cũng
một "nghịch Thuyết", hai "nghịch Thuyết", những kẻ làm sử,
làm văn cũng a tòng gọi như thế, cứ lập đi lập lại làm cho quốc dân nghe thành
quen tai. Nhiều kẻ cho vãn bối là hạng hèn nhát đào ngũ nữa chứ! Như thế làm
sao vãn bối vui được?
Hồ Quí Ly nói:
- Tướng quân đừng quan tâm dư
luận nhất thời làm chi cho mệt! Người đời sau đứng ngoài cuộc sáng suốt chắc
chắn phán xét công bằng hơn. Tướng quân hãy nghe ta hỏi mấy câu thì tướng quân
sẽ thấy rõ chân lý ngay!
- Dạ, vãn bối sẵn sàng chờ nghe
lời dạy...
- Có phải Tướng quân đã đánh với
Pháp cho đến khi kiệt lực mới chạy sang Trung Hoa cầu viện không?
- Dạ đúng!
- Có phải thân sinh Tướng quân
cũng vì nước mà bị tù đày không?
- Dạ phải!
- Có phải nhạc phụ của Tướng quân
khởi nghĩa chống Pháp ở Bãi Sậy vang danh một thời rồi thất bại gởi xương ở quê
người không?
- Dạ phải!
- Có phải hai người em ruột của
Tướng quân đều bỏ chức quan mà khởi nghĩa chống Pháp rồi hiện ở tù hay chết đâu
chưa rõ không?
- Quả có!
- Có phải Tướng quân có hai người
con, một bị giết trong khi bảo vệ vua Hàm Nghi và một tử tiết khi vua Hàm Nghi đã
bị Pháp bắt không?
- Quả có!
- Những cống hiến quá to lớn đối
với đất nước như thế, có gia đình nào theo kịp không? Tướng quân phải hãnh diện
mới được chứ! Tướng quân lòng son dạ sắt, nhất định người sau sẽ công bằng mà
xét cho Tướng quân! Cứ xem Nhạc Phi đời Tống, bị chém vì tội khi quân mà vạn
thế đều ca tụng lòng trung liệt của người chứ có ai hiểu lầm đâu? Ngược lại,
Tần Cối bán nước thì chỉ làm mưa làm gió được một thời rồi bị vạn thế nguyền rủa.
Một số người có thể phán xét lầm hoặc cố tình xuyên tạc sự thật, nhưng lịch sử
không bao giờ phán xét lầm được. Bây giờ Tướng quân đã thấy phần nào chân lý
hiện nét chưa?
Đả Thạch Ông bấy giờ mới nở một
nụ cười:
- Vãn bối cám ơn nhị vị tiền bối
đã mở mắt cho...
- Tuyệt hảo! Tuyệt hảo! Thôi, giờ
đây chúng ta tạm giã từ, mình sẽ hội ngộ một ngày gần đây! Bảo trọng! Bảo
trọng!
Nói xong hai người khách thong
thả đứng dậy đi ra. Đả Thạch Ông cảm thấy lòng thoải mái, muốn bước theo mời
giữ hai ông ở lại để tạ ơn một chén rượu. Nhưng Hồ Quí Ly khoát tay đẩy mạnh Đả
Thạch Ông một cái:
- Tướng quân hãy trở vào!
Cái đẩy mạnh của họ Hồ làm cho Đả
Thạch Ông chúi nhủi, chân trái ông vấp vào một vật gì đó khiến ông giật mình.
Ông ngẩng đầu nhìn lại thì chẳng thấy ai nữa cả. Thì ra cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư mà Đả Thạch Ông cầm trên tay đã rớt xuống chân trái ông. "Ta đã mộng
gặp cổ nhân thì cũng có nghĩa như ta sắp theo chân cổ nhân" _ ông nhủ
thầm. "Dù chuyến đi cầu viện đã hoàn toàn tuyệt vọng nhưng bây giờ thì lòng
ta thoải mái lắm! Ta rất vui mừng vì ta đã thoát khỏi cái tội rước voi dày mả
tổ. Ôi! Chút nữa ta phải mang danh bán nước muôn đời! Cám ơn trời đất! Cám ơn
trời đất!"
Đả Thạch Ông đang vui vẻ thì
người đầu bếp bưng cơm trưa lên.
- Chiều nay khỏi bưng cơm lên đây
nữa. Ta sẽ tới dùng cơm chung với các ngươi!
Vẻ mặt lầm lì của vị chủ nhân mặt
sắt nghiêm khắc biến đâu mất thay vào đó là vẻ cười cởi mở và giọng nói khác
thường khiến cho người đầu bếp kinh ngạc hết sức. Y không dám tin vào tai, vào
mắt y nữa. Y há hốc miệng:
- Bẩm Thượng quan...
Đả Thạch Ông cười hiền hòa:
- Ta nói thật đấy, chiều nay hãy
đem bình rượu quí của ta ra đãi tất cả mọi người, ngươi nhớ nhé! Thôi, cho
ngươi lui, bao giờ cần ta gọi.
Người đầu bếp vừa đi xuống nhà
dưới vừa lẩm bẩm:
- Ai cũng nói là ông ấy điên rồi,
phải chăng bây giờ đến lúc ta điên?
*
Mấy buổi chiều liên tiếp Đả Thạch
Ông không ra sân như thường lệ. Những người ghiền xem Đả Thạch Ông chém đá đến
loanh quanh một chốc rồi trở về với nhiều thắc mắc, bâng khuâng. Họ linh cảm
đây là một triệu chứng bất thường...
Không ai có thể tưởng tượng được
rằng, trong những buổi chiều đó, Đả Thạch Ông đã ngồi cùng những thuộc hạ tòng
vong uống trà nói chuyện hết sức thân mật như cha con. Thật tình mà nói, ban
đầu thái độ cởi mở lạ lùng của Đả Thạch Ông làm cho những thuộc hạ còn nghi
ngờ, dè dặt lắm. Nhưng qua hôm sau thì mọi ngăn cách giữa họ không còn nữa...
- Ta bình sinh, tánh tình nóng
nảy nên dễ bị khích động. Thành ra, trong đời ta đã làm nhiều chuyện nghĩ lại
không nên làm. Nóng lòng vì việc nước, ta đã không từ cả những việc hại vua,
giết đại thần. Nhưng chuyện ta nhớ sâu đậm nhất là chuyện chém một thằng nhỏ.
Ngày kia, trong khi ta đi tuần thì thấy một tên lính gác còn non choẹt, có vẻ
lơ đãng, đang nghêu ngao ngâm thơ:
"Việt
Nam có bốn anh hùng,
Tường
gian, Viêm dối, Khiêm khùng, Thuyết ngu!"
Khổ nỗi tới tiếng "Thuyết
ngu" thì thằng nhỏ lại nhấn mạnh, kéo dài ra. Nghe qua, ta giận điên lên,
cho lệnh chém đầu nó tức khắc. Khi bị lôi ra chém, mặt mày thằng bé xanh mét,
mồ hôi ra nhễ nhãi, nó kêu "mẹ ơi!".
Sau này, mỗi lần nhớ lại gương mặt ngây thơ của thằng bé ta lại ân hận
lắm. Ngoài ra lại có một anh đồ nho nào đó nữa đã làm ra hai câu đối:
"Nhất
giang lưỡng quốc nan phân Thuyết,
Tứ
nguyệt tam vương triệu bất Tường".
Ta nghe được là muốn mượn cái đầu
của tác giả nó ngay. Nhưng may phước cho anh ta, ta dò tìm mãi không ra được.
Nói xong Đả Thạch Ông đọc lại hai
câu thơ trên rồi cười ha hả. Một người thấy ông đang vui vẻ xen vào:
- Thế bây giờ nếu biết được ai là
tác giả hai câu ấy là ai Thượng Quan có chém không?
- Không. Bây giờ ta thấy lòng ta
phẳng lặng lắm, oán thù tan biến đâu mất cả. Nếu biết được tác giả hai câu đó
là ai, ta sẽ bái ông ta làm thầy...
Thế rồi thầy trò lại cùng nhau
cười ha hả...
Không ngờ cái không khí thân mật
vui vẻ ấy không kéo dài được bao lâu. Mấy ngày sau Đả Thạch Ông lại cảm thấy
mệt mỏi... chỉ ưa nằm lì tại giường. Thầy thuốc có đến hốt thuốc cho uống nhưng
bệnh vẫn không giảm.
Một hôm, Đả Thạch Ông gọi tất cả
người nhà xúm lại quanh giường rồi nói:
- Ta biết
trong người ta lắm. Có lẽ ta không còn chung sống với các ngươi bao lâu nữa.
Đối với quốc gia dân tộc, ta đã phục vụ hết lòng. Gia đình ta, cha ta, nhạc phụ
ta, các em ta, hai con trai ta, rể ta tất cả đều đóng góp, hi sinh tận tụy cho
sự sống còn của tổ quốc Việt Nam. Ta rất hãnh diện vì việc đó, không có gì để
phải ân hận cả. Nếu ta đối xử nặng tay với những kẻ phản bội, lừng khừng trong
việc chống Pháp đều là việc chẳng đặng đừng. Riêng với các ngươi, cũng hi sinh
xa rời người thân, lưu lạc quê người vì sự nghiệp cứu nước, ta rất quí trọng.
Tuy nhiên, do nóng lòng vì việc nước, đôi lúc ta đối xử với các ngươi không
được hòa nhã, đã làm cho các ngươi buồn phiền, mong rằng các ngươi hiểu mà niệm
tình tha thứ cho ta. Sau khi ta chết, Thanh triều sẽ không còn quản thúc các
ngươi nữa đâu. Ta mong mọi người đều kiếm được công ăn việc làm đàng hoàng và
lập được gia đình, tạo được một tổ ấm trên bước đường tha hương... À, ta cũng
còn một điều nữa cần nhắc các ngươi: "Nếu
kẻ nào muốn cứu nước mà nhờ đến người Trung Hoa thì chắc chắn đó là kẻ mê mờ,
đã có cơ sa chân vào tội bán nước rồi đấy!" Đó là kinh nghiệm xương
máu của những người đi trước...
Giọng Đả
Thạch Ông yếu dần... Sau cùng, người ta thấy ông hơi mỉm cười và ngâm nho nhỏ:
"Minh
tinh chín chữ lòng son tạc,
Non
nước từ đây mặc gió thu..."
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu)
Mọi người nghe nói đều xúc động
rơi nước mắt.
Đêm hôm ấy Đả Thạch Ông qua đời.
Thọ được 73 tuổi.
Lúc bấy giờ ông Lý Can Nguyên
đang chấp chính ở Bắc Kinh cảm thương người trung dũng tiết liệt đã cho xây một
ngôi mộ rất lớn và đề bia:
"Nguyễn Phúc Thuyết Ngự Tiền
Thân Vương chi mộ".
Những nhân sĩ Trung Hoa thương
mến ông Thuyết đã dự phúng điếu rất đông, họ có câu đối như sau:
Thù
nhung bất cộng đái thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng Quận
Hộ
giá biệt tầm tĩnh địa, bách niên tàn cốt ký Long Châu
(Thù
Tây không đội trời chung, muôn thuở danh thơm lưu đất Việt
Giúp
vua riêng tìm cõi thác, trăm năm cốt rụi gởi Long Châu).