Quốc sĩ vô song, song Quốc sĩ.
Anh hùng bất nhị, nhị Anh hùng.
Đó là 2 câu đối của vua Lê Thái Tổ cảm khái đề ra khi viếng quê hương của danh tướng Đặng Tất.
Đặng Tất sinh năm 1357 tại làng Tả Hạ, xã Phù Lưu, tổng Nội Ngoại, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An. Hiện nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Thám hoa triều Trần, làm quan với chức Hành khiển. Ông là con cháu của Lại bộ Thượng thư Đặng Bá Tĩnh.
Khi giặc Minh xâm lược, biến nước Việt thành quận huyện với chính sách “lấy di trị di”. Do bị bức bách ông trá hàng, được giao làm ĐạiTri châu Châu Hóa.
Ngày 1/11/1407, Trần Ngỗi tự xưng làm Giản Định Đế, dựng cờ khởi nghĩa ở Yên Mô (Ninh Bình) lập triều Hậu Trần. Lực lượng nghĩa quân vừa mới gây dựng bị quân Minh kéo đến đàn áp nên có nguy cơ tan rã. Giản Định Đế liền đưa quân vào Nghệ An tiếp tục hoạt động, được một số quý tộc nhà Trần cùng quan lại cũ của nhà Hồ tìm về tụ nghĩa.
Vốn là người có tài nên ông được Giản Định Đế phong làm Quốc công, chỉ huy toàn bộ lực lượng nghĩa quân. Dưới sự chỉ huy của ông và Nguyễn Cảnh Chân, nghĩa quân đánh thắng nhiều trận nổi tiếng.
Cuối năm 1407, ông đánh thành Diễn Châu và thành Nghệ An tiêu diệt Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu và 600 quân Minh.
Tướng giặc tên Trương Phụ đưa quân đến Nghệ An đàn áp, vì thiếu quân, ông phò Giản Định Đế rút vào Châu Hóa (Quảng Trị) xây dựng căn cứ.
Đầu năm 1408, ông đánh tan đạo quân của tướng Minh tên Phạm Thế Căng ở cửa Nhật Lệ.
Tháng 10 năm 1408, ông điều động quân các lộ Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An và Thanh Hóa tiến ra Đông Đô. Nhiều hào kiệt trong vùng nhiệt liệt hưởng ứng, gia nhập vào đoàn quân của ông.
Ngày 14/12/1408, ông và Nguyễn Cảnh Chân chỉ huy đánh tan quân Minh trên bến Bô Cô (nay là xã Hiếu Cổ, Nam Định) chém chết Thượng thư Bộ binh Lưu Tuấn và Đô ty Lữ Nghị của quân Minh.
Sau hơn một năm giúp nhà Hậu Trần, Đặng Tất góp sức lập nhiều công trạng lớn. Nhưng Giản Định Đế đa nghi, nghe lời gièm pha của hoạn quan Nguyễn Quỹ và Nguyễn Mộng Trang ra lệnh giết Đặng Tất cùng với Nguyễn Cảnh Chân trên bến Hoàng Giang vào năm 1409.
Trong sách “Đại việt sử ký toàn thư”, sử gia Ngô Sĩ Liên có lời bình:“Nghe lời gièm pha của kẻ hoạn quan một lúc giết hai người bề tôi phò tá, tự mình chặt bỏ chân tay bè cánh thì làm sao nên việc được”.
Các triều vua nhà Lê, vua nhà Nguyễn đều sắc phong thần cho ông và con ông là võ tướng Đặng Dung.
Năm 1654, cháu mấy đời của Đặng Tất và Đặng Dung là Tổng binh Đặng Ngũ Quế lấy ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tý làm chuẩn, cứ 3 năm tổ chức lễ tưởng niệm hai ông một lần.
*****
Võ tướng Đặng Tất là một trong những anh hùng thời Hậu Trần,nhưng ông không có được may mắn như những tướng lãnh sinh cùng thời với ông là Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo.v.v. đầu quân dưới trướng Bình Định Vương Lê Lợi, đã đạt được tâm nguyện giải cứu sơn hà xã tắc, dựng lại ngọn cờ tự chủ cho dân tộc.
Thế nhưng, các chiến công của ông được nhiều sử gia ghi nhận, ông đã khiến cho quân Minh không thể bình định nước Việt, tạo cơ hội cho các lực lượng kháng chiến khác trỗi dậy ở khắp nơi, trong đó có đoàn nghĩa quân Lam Sơn của đức Lê Lợi.
Điều đáng nói nhất là, dù biết rõ lực lượng đơn độc của mình, ông vẫn một lòng quyết chí theo đuổi công cuộc chống ngoại xâm, nhưng bị Giản Định Đế nghe lời gièm pha giết chết tạo nên cảnh bi thương và là điều bất hạnh của thời Hậu Trần.
Cuộc khởi nghĩa của ông và vua tôi nhà Hậu Trần tuy thất bại nhưng gương tiết liệt được hậu thế ghi nhớ và ông được sử Việt ghichép là một trong những võ tướng oai hùng trong công cuộc chốnggiặc ngoại xâm của dân tộc.
Con ông là võ tướng Đặng Dung thà nhảy xuống sông tuẩn tiết, chứ không chịu làm tai sai cho giặc. Đặng Dung đã để lại bài thơ“Cảm hoài” nổi tiếng, thể hiện ý chí sắt đá của một anh hùng bất phùng thời như sau:
Việc lớn chưa xong, tuổi đã già,
Đất trời thu gọn, tiệc ngân nga.
Gặp thời bần tiện, thành công dễ,
Lỡ bước anh hùng, dạ xót xa.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất,
Rửa dòng không lối, kéo ngân hà.
Bạc đầu, thù nước còn chưa trả,
Mấy độ mài gươm, bóng nguyệt tà.
Đặc biệt trong hoàn cảnh đen tối của đất nước hiện nay, ngoài tuổi trẻ đang vùng lên tranh đấu chống chế độ độc tài cộng sản, nướcViệt cũng đang cần nhiều người "dù tóc đã bạc" nhưng vẫn "mài kiếm dưới trăng" trong hoài bão cứu nguy Tổ quốc trước hiểm họa mất nước về tay Tàu cộng!
Việt Thái