Dân Sinh Media Network.- Trong chương trình phát thanh hôm nay, chúng
tôi kính mời quý thính giả theo dõi cuộc đàm thoại giữa ông Phạm Phú Nam và nhà
văn Điệp Mỹ Linh.
Bà Điệp Mỹ Linh
là tác giả cuốn tài liệu Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975. Đây là một tài liệu
quý giá viết về quân chủng Hải-Quân.
Trong thời kỳ chiến tranh, bà Điệp Mỹ
Linh thường tháp tùng các đơn vị tác chiến Hải-Quân, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân
trung tá Hồ Quang Minh – phu quân của Bà – trong những cuộc hành quân hỗn hợp
trên sông rạch thuộc vùng IV Sông Ngòi. Bà đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh
ác liệt giữa các đại đơn vị Việt Cộng và Hải-Quân V.N.C.H. trên những dòng sông
chằn chịt thuộc vùng U Minh hung hiểm.
Vào thời điểm 30 tháng Tư, 1975, bà Điệp
Mỹ Linh may mắn đã cùng gia đình thoát khỏi Việt-Nam trên Đương Vận Hạm Thị Nại,
HQ502. HQ502 cùng với Hạm Đội Hải-Quân V.N.C.H. đã thực hiện sứ mệnh cuối cùng
của Hải-Quân là đưa hơn 30 ngàn đồng bào và quân bạn đến bến bờ Tự Do.
Hôm nay Dân Sinh xin hân hạnh giới thiệu
và kính mời quý thính giả cùng nghe cuộc đối thoại giữa ông Phạm Phú Nam và bà
Điệp Mỹ Linh. (1)
Tôi là Phạm Phú Nam, xin kính chào quý
thính giả khắp nơi. Hôm nay chúng tôi được tiếp chị Điệp Mỹ Linh, là một tác giả
nổi tiếng của Hải-Quân về những tác phẩm viết về Hải-Quân.
Xin chào chị Điệp Mỹ
Linh.
Điệp
Mỹ Linh xin trân trọng kính chào quý thính giả và kính chào anh Phạm Phú Nam.
Thưa chị, bây giờ là hơn
39 năm tỵ nạn, còn vài tháng nữa là 40 năm. Bốn mươi năm nhìn lại, xin chị cho
biết, 40 năm trước, vào thời điểm 30 tháng Tư, chị rời Việt-Nam trong trường hợp
nào?
Thưa
anh, tôi cùng gia đình rời Việt-Nam khoảng 12 giờ đêm 29 tháng Tư 1975, bằng
ngã Sở Hàng Hà. Từ chiều 29 tháng Tư, ông nhà tôi liên lạc với nhiều đơn vị
nhưng không được đơn vị nào trả lời. Gia đình tôi cùng một số bạn hữu vào Sở
Hàng Hà. Ông nhà tôi nhờ một giang đỉnh đưa sang Dương Vận Hạm Thị-Nại, HQ502 –
lúc đó HQ502 đang cặp cầu trước Bộ Tư Lệnh Hải-Quân.
Giang
đỉnh cập bên hông HQ502, mé ngoài sông. Thành tàu rất cao, nước chảy xiết,
không có cầu bắt lên HQ502 cho nên phụ nữ và trẻ em gặp rất nhiều khó khăn.
Nhưng, nhờ những người có mặt trước trên HQ502 giúp đỡ tận tình cho nên chúng
tôi nhập hạm một cách an toàn.
Sau
khi lên được HQ502, tôi thấy chiến hạm đầy người, không còn một chỗ trống.
Khoảng
12 giờ rưỡi hay 1 giờ sáng 30 tháng 04-75, HQ 502 rời bến, giang hành về hướng
Nhà Bè. Gần đến Nhà Bè tôi thấy lửa rực trời vì kho xăng Nhà Bè bị trúng đạn
pháo kích của Việt Cộng.
Trên
đường ra biển, HQ502 vớt thêm không biết bao nhiêu đồng bào và quân bạn từ ghe
nhỏ và chiến đỉnh. Trong số quân nhân được HQ502 vớt, tôi được biết có khoảng
60 Người Nhái – thuộc Liên Đoàn Người Nhái – Hải Quân trung tá Trịnh Hòa Hiệp,
chỉ huy trưởng Liên Đoàn Người Nhái và Hải-Quân đại tá Trịnh Quang Xuân, Tư Lệ
Vùng III Sông Ngòi, từ một PBR (River
Patrol Boat – Giang Tốc Đỉnh).
Sáng
01 tháng 05 – 1975, HQ502 ra đến biển.
Xin cảm ơn chị. Tôi muốn
hỏi chị, vào những ngày cuối tháng Tư chị có cảm nhận hoặc cảm thấy tình hình
chính trị của đất nước diễn biến như thế nào không?
Thưa
anh, tôi chỉ xin nói những gì tôi thấy, tôi biết, trong phạm vi Hải-Quân mà
thôi.
Thời
điểm đó tinh thần tôi rất rối loạn. Theo báo chí, TV và đài BBC thì quân của
V.N.C.H. cứ bị đẩy lùi dần về phía Nam – vì thiếu vũ khí, thiếu đạn dược và
cũng vì kẹt đồng bào chạy theo cho nên Lính V.N.C.H. không thể chống trả những
đợt tấn công của Việt Cộng! Khi ông nhà tôi cho biết chiến hạm Hải-Quân đã di tản
đồng bào và quân bạn khỏi vùng II Duyên Hải thì tôi hoàn toàn không còn tự chủ
được; vì em tôi, đại úy Pháo Binh bị kẹt tại Phù-Cát và đại gia đình của tôi bị
kẹt tại Cam-Ranh, chỉ một mình tôi ở Saigon!
Tôi
nhờ ông nhà tôi xem có chiến hạm nào ra Trung, xin cho tôi quá giang để về đón
đại gia đình của tôi. May mắn là Dương Vận Hạm Nha-Trang, HQ505, Hạm Trưởng là
Hải-Quâng trung tá Nguyễn Văn Nhượng, đang nhận đạn tại Thành Tuy Hạ để tiếp tế
cho mặt trận Phan-Rang. Tôi quyết định xin theo HQ505 đến Phan-Rang rồi sẽ tìm
phương tiện về Cam-Ranh.
Khi
HQ505 đến hải phận Phan-Rang thì Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh – đang chỉ huy các
đơn vị Hải-Quân Vùng II Duyên Hải, từ Tuần Dương Hạm Trần Nhật Duật, HQ3, tại vịnh
Phan-Rang – không cho HQ505 ủi bãi. Lúc đó tôi mới biết Việt Cộng đã chiếm
Phan-Rang và tôi thấy hai xe tăng T54 ngay bãi biển, chỉa mũi súng ra HQ3 và
HQ505! Tôi thấy ghe thuyền ồ ạc chèo ra HQ505; trên ghe toàn lính, đủ mọi quân
binh chủng! Tôi khóc cho gia đình tôi. Tôi khóc cho những oan khiên đang phủ chụp
xuống Quê Hương tôi. Và tôi khóc cho thân phận những người lính đang cố giăng
cao chiếc áo trận để thủy thủ đoàn dễ nhận diện!
Hạm
Trưởng Nhượng sắp bước lên đài chỉ huy. Tôi gọi: “Anh Nhượng!” Nhượng dừng bước, nhìn tôi. Tối tiếp: “Anh không vớt mấy ông lính trên ghe sao?”
Hạm Trưởng Nhượng im lặng một thoáng như cố nén xúc động rồi đáp: “Tôi được lệnh không vớt ai cả. Một tàu đạn
đầy!”
HQ505
bẻ một vòng cua ngặt để rời vùng biển Phan-Rang.
Trên
hải hành xuôi Nam, HQ505 được tin Dương Vận Hạm Vũng-Tàu, HQ503 – vừa hoàn tất công
tác vớt nhóm quân nhân Nhảy Dù trong vịnh Cà-Ná, theo lệnh của Trung Tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi, từ trực thăng – bị Việt Cộng lấy pháo binh của V.N.C.H. bắn trúng
đài chỉ huy, gây tử thương cho bốn năm người. Sau đó, HQ505 được tin Trung Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi – Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III – bị Việt Cộng bắt tại hầm
chống pháo kích, sau khi Ông bay trở lại mặt trận Phan-Rang!
HQ505
đến Phan Thiết vào buổi chiều. Tối đó tôi thấy đạn xẹt xanh đỏ cả vòm trời rồi
rơi xuống Phan Thiết. Phan Thiết bị Việt Cộng pháo kích liên tục và dai dẳng!
HQ505 nhận được tín hiệu kêu cứu của Tỉnh Trưởng Phan Thiết, nhưng đành chịu!
Vào thời điểm đó, phu
quân của chị là một sĩ quan cao cấp, chị có nghĩ rằng miền Nam sẽ mất vào tay Cộng
Sản hay không?
Thưa
anh, ngay như khi ông Vũ Văn Mẫu đuổi Mỹ ra khỏi Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng
hồ, tôi cũng không nghĩ rằng miền Nam sẽ mất vào tay Cộng Sản. Lý do là Hải-Quân
V.N.C.H. không có dự trù gì cả. Đô Đốc Chung Tấn Cang có ý định đưa Hạm Đội ra
Phú-Quốc hoặc về Vùng IV Sông Ngòi, chỉnh đốn hàng ngũ để chuẩn bị cho cuộc chiến
lâu dài hoặc là nhờ Liên Hiệp Quốc cang thiệp; vì Việt Cộng đã ký Hiệp Định
Genève, năm 1954, nhưng Việt Cộng đã vi phạm. Nếu Liên Hiệp Quốc không cang thiệp
thì Hạm Đội sẽ về Vùng IV; vì thời điểm đó tình hình Vùng IV rất yên tĩnh.
Sau
này tôi được dịp phỏng vấn Trung Tướng Vĩnh Lộc – Tổng Tham Mưu Trưởng cuối
cùng của V.N.C.H. – thì Tướng Vĩnh Lộc xác nhận rằng chính Tướng Vĩnh Lộc điện
thoại trực tiếp cho Tướng Nguyễn Khoa Nam – Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật. Tướng
Lộc cho Tướng Nam biết rằng: Nếu không giữ được Saigon, Chính Phủ sẽ di tản xuống
Vùng IV và giao trách nhiệm chỉ huy chiến trường cho Tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng
Nam đáp: “Vâng. Đàn anh đã giao phó thì
đàn em xin nhận lệnh.” Điều này xác nhận rằng Hải-Quân V.N.C.H. không hề có
bất cứ một dự tính nào để Hạm Đội rời khỏi hải phận Việt-Nam.
Nhưng
cuối cùng, ông Richard L. Armitage – nguyên là cố vấn của Hải-Quân – khuyên Hạm
Đội nên tập trung tại Côn-Sơn để xem tình hình chính trị diễn tiến như thế nào
rồi mới hoạch định những bước kế tiếp.
Lúc đó Hạm Đội mới được chỉ thị tập trung tại
Côn-Sơn.
Chị vui lòng thuật lại
những biến động quanh hoặc trên HQ502 mà chị đã ra đi. Hải trình của HQ502 như
thế nào? Có bị trở ngại gì không? Bao nhiêu người trên HQ502?
HQ502
rời Saigon, theo sông Soài Rạp. Sau khi chúng tôi rời trại tỵ nạn Camp
Pendleton, báo Mỹ phỏng vấn, ông nhà tôi cho biết HQ502 đã chuyên chở khoảng
trên năm ngàn đồng bào và quân bạn.
Khi
HQ502 ra đến biển, chúng tôi được tin Việt Cộng bắn vào thương thuyền Việt-Nam
Thương Tín, gây tử thương cho nhiều người; trong số nạn nhân có nhà văn Chu Tử.
HQ502
chỉ còn một máy, đang “ì ạch” tiến, bỗng một L19 bay đến, lượn quanh chiến hạm.
Mọi người trên tàu đều nằm rạp xuống, vì sợ Việt Cộng lấy phi cơ của V.N.C.H.
bay theo để tấn công chiến hạm. Đến vòng thứ ba, L19 sà thấp xuống, cách mũi
HQ502 khoảng 50 thước và anh phi công phụ nhảy ra. Nhiều phao nổi được vất xuống
biển.
Trong
khi mọi người chưa biết phương cách nào để cứu anh phi công phụ thì Người Nhái
Nguyễn Văn Kiệt chụp con dao cá nhân, mang vội đôi chân nhái, tròng vào người một
áo phao và mang theo một áo phao cho nạn nhân rồi nhảy xuống biển.
Sau
khi vớt được phi công phụ, Người Nhái Kiệt cố bơi theo tàu; nhưng vì sức nước bị
bánh lái tàu đẩy mạnh ra sau khiến anh Kiệt rất vất vả và khó khăn trong việc cấp
cứu.
Trong
khi anh Kiệt đang tận lực chống chọi với sức đẩy của nước thì trên không trung
chiếc L19 đảo lại một vòng nữa và anh phi công nhảy ra. Thân người của anh phi
công vừa chạm mặt nước liền bị “tưng” lên rồi chìm trong khi chiếc L19 không
người lái cũng đâm vào lòng biển.
Anh
phi công phụ – đang trong vòng tay cứu vớt của anh Kiệt – hét to: “Anh thả tôi ra, tới cứu giùm bạn tôi.”
Anh Kiệt đáp: “Tôi chưa biết tôi có thể cứu
anh được hay không; vì chúng ta đang bị sóng đẩy lùi ra sau thì làm thế nào tôi
có thể cứu bạn anh?”
HQ502
quay lại, vớt cả anh Kiệt và anh phi công phụ trong tiếng reo hò vang dội của mọi
người trên tàu.
Sau đó tình trạng của
anh phi công và anh phi công phụ như thế nào?
Anh
phi công chìm luôn. Thời điểm đó gia đình tôi tạm trú tại khoảng không gian nhỏ,
giữa đài chỉ huy và sàn tàu – Hải-Quân Việt-Nam gọi là “sân thượng”; Hải-Quân
Hoa-Kỳ gọi là spardeck (2).
Ngay khuya hôm đó tôi thấy một bóng trắng, gần nơi gia đình tôi tạm trú, phóng
mạnh, vượt qua khoảng không gian của sàn tàu và rơi vào lòng biển! Nhiều người
và tôi cùng la lên “Có người tự tử!”
nhưng tàu vẫn tiến, không ai có thể làm gì được! Về sau nhiều người kiểm chứng
và cho biết người tự tử là anh phi công phụ của chiếc L19!
Điều đó đúng hay không,
thưa chị?
Thưa
anh, cả 5 ngàn người trên tàu không ai có thể xác quyết được đúng anh phi công
phụ hay không. Nhưng điều quan trọng là không hề thấy hoặc nghe anh phi công phụ
lên tiếng. Mấy mươi năm qua cũng chẳng nghe anh phi công phụ lên tiếng.
Thưa chị, anh phi công
phụ đã được cứu, tại sao anh ấy lại tự tử?
Tôi
nghĩ truyền thống cao đẹp của Người Lính V.N.C.H. là Huynh Đệ Chi Binh; lúc nào
cũng lo lắng, giúp đỡ nhau. Có thể lúc đầu anh phi công cho anh phi công phụ
lên máy bay là có ý giúp bạn. Về sau, anh phi công phụ lại được Người Nhái Kiệt
cứu giúp một lần nữa – trên biển – trong khi ân nhân của anh thì không. Có thể
trong thời gian hoảng loạn đó anh phi công phụ nghĩ đến Cha Mẹ vợ con bị kẹt lại;
chỉ còn vị ân nhân mà vị ân nhân đó cũng không sống được, vậy thì mình sống để
làm gì! Đây là tôi suy ra từ tâm trạng của tôi; bởi vì niềm đau khổ đó rất to lớn,
rất sâu xa, không dễ gì vượt qua!
Xin chị cho biết nhận
xét của chị về Người Lính V.N.C.H – đặc biệt là thủy thủ đoàn – như thế nào
trong chuyến di tản đó.
Thưa
quý vị thính giả, thưa anh Nam, điều nhận xét của tôi không phải để đề cao quân
chủng Hải-Quân. Sự thật thì Hải-Quân là một trong những quân binh chủng của
Q.L./V.N.C.H. có truyền thống tốt đẹp, đạo đức và tinh thần kỹ luật rất cao; nhờ
vậy, những cuộc di tản từ Vùng I Chiến Thuật cho đến suốt cuộc di tản vĩ đại đầu
tháng 05-1975 không hề xảy ra bất cứ một sự việc đáng tiếc nào.
Anh
nhớ những cuộc di tản từ miền Trung bằng xà-lang, ghe hoặc tàu dân sự vào Vũng
Tàu hoặc Phú Quốc thê thảm như thế nào không? Vì Việt Cộng đã lấy quân phục của
Lính V.N.C.H. mặc rồi cố ý gây những điều tàn ác để làm giảm uy tín của Người
Lính V.N.C.H. Những thảm trạng đó không hề xảy ra trên bất cứ chiến hạm nào của
Hải-Quân; vì Hải-Quân đã đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống
để giữ an ninh cho đồng bào và đồng đội. Vả lại, tôi nghĩ, thời gian đó, mọi
người đều rơi vào tâm trạng đau đớn, khổ sở và hoang mang trước một thực thể
không thể chấp nhận được cho nên không ai còn tâm trí nghĩ đến những điều tàn
ác để hại nhau.
Xin chị cho biết tâm trạng
cũng như vấn đề thức ăn, nước uống và vệ sinh cho cả năm ngàn người trên chiến
hạm?
Thưa
anh, mấy anh hỏa đầu vụ lo nấu cơm liên tục – ngày cũng như đêm – mới đủ để
cung cấp cho đồng bào và quân bạn; nấu nước sôi cho em bé uống sữa. Mấy anh thủy
thủ dùng gỗ đóng nhà vệ sinh “dã chiến” dọc theo thành tàu để giải quyết vấn đề
vệ sinh. Nhưng tội nghiệp nhất là cảnh nhiều thủy thủ, sĩ quan và hạ sĩ quan, vợ
con bị kẹt lại, tối họ đứng riêng, khóc một mình. Nhưng khi ngày đến, họ đều trở
lại “vị trí hoặc nhiệm sở” để phục vụ đồng bào và đồng đội.
Về
tâm trạng, tôi nhận thấy trong mắt và trên nét mặt của mỗi người đều mang nét u
buồn, thất vọng. Khi nói chuyện với người Lính tôi mới nhận ra rằng quân nhân
là những người đau khổ nhất! Bao nhiêu năm hết lòng chiến đấu cho Quê Hương; nếu
họ được gục ngã ngoài chiến trận thì họ gục ngã cho Quê Hương, vì Quê Hương,
linh hồn của họ có thể yên nghỉ trong niềm hãnh diện của người trai đã làm tròn
sứ mạng. Nhưng họ đã không được gục ngã để ngày nay phải thấy đồng bào và đồng
đội dắt díu nhau ra đi và Quê Hương rơi vào tay Cộng Sản! Đó là những quân nhân
đem theo được vợ con; còn những quân nhân không thể đem Cha Mẹ vợ con theo thì
niềm đau khổ của họ là vô tận!
Một
sĩ quan cao cấp Hải-Quân – cựu Hải-Quân đại tá Đỗ Kiểm, nguyên Tham Mưu Phó
Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải-Quân (3)
– là một điễn hình. Với cấp bậc và chức vụ như vậy, đại tá Kiểm đã đặt trách
nhiệm trên hết. Đại tá Kiểm đã lo cho đoàn tàu, lo cho mọi người, không có thì
giờ về cư xá đưa vợ con của Ông đi.
Khi
Hạm Đội đến Guam, được lệnh phải cởi bỏ cấp bậc, nhiều ông khóc! Tôi nghĩ rằng
đó là những giọt nước mắt tủi nhục! Họ tủi nhục vì mấy mươi năm chiến đấu mà vẫn
không giữ được miền Nam! Tôi nghĩ, lý do mình không giữ được miền Nam không phải
trong tầm tay của người dân miền Nam hoặc do chính phủ miền Nam hoặc do khả
năng chiến đấu của Người Lính V.N.C.H. Sự thất thủ miền Nam đến từ bàn hội nghị
và cũng do sự lừa đảo của Cộng Sản Việt-Nam. Cộng Sản Việt-Nam xâm phạm hiệp định
ngưng chiến năm 1973 không phải bằng súng đạn mà bằng sự xảo trá, gian manh tại
bờ sông Thạch Hãn.
Theo nhà văn quân đội Phan Nhật Nam ghi
lại thì, trong thời gian ngưng chiến, Việt Cộng bỏ súng, sang phòng tuyến Thủy
Quân Lục Chiến V.N.C.H., bảo: “Anh em cả.
Ngưng chiến dzồi, thích quá! Chúng tôi thèm thuốc hút, thèm ăn, các anh ủng hộ
tý.” Thủy Quân Lục Chiến tin người, lấy thuốc quân tiếp vụ và thức ăn hộp
đãi người anh em bên kia chiến tuyến. Ăn, hút xong, một tiếng “sát” vang lên, nhóm Việt Cộng rút lưỡi
lê đâm mấy ông Thủy Quân Lục Chiến chết!
Tại
một địa điểm khác, cũng bên sông Thạch Hãn, sáu tên Việt Cộng sang phòng tuyến
của Thủy Quân Lục Chiến xin thức ăn và thuốc hút. Ăn, hút xong, nhóm Việt Cộng
mời mấy ông Thủy Quân Lục Chiến sang thăm phòng tuyến của Việt Cộng. Mười hai
Thủy Quân Lục Chiến theo sáu tên Việt Cộng đó rồi không bao giờ mười hai Thủy
Quân Lục Chiến trở về!
Rất
nhiều người biết chi là tác giả của nhiều tác phẩm viết về Hải-Quân. Xin chị
cho thính giả biết chị viết những tác phẩm đó vào trường hợp nào?
Tôi
thực hiện cuốn Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 vì lòng yêu mến, ngưỡng phục của
tôi dành cho quân chủng Hải-Quân. Suốt cuộc di tản năm 1975 tôi thấy Hải-Quân
đã thể hiện truyền thống cao đẹp của Hải-Quân. Ngoài cuốn tài liệu về Hải-Quân,
tôi còn viết nhiều truyện ngắn về Hải-Quân và Lính, thuộc đủ quân binh chủng.
Lý do tôi có thể viết về Hải-Quân và Lính là do ngày trước tôi thường tháp tùng
các đơn vị tác chiến Hải-Quân – dưới sự chỉ huy của Hải-Quân trung tá Hồ Quang
Minh – lênh đênh trên sông rạch thuộc Vùng IV Sông Ngòi.
Những
lần Hải-Quân đụng trận trên sông, khung cảnh quanh tôi thật “đẹp”, thật hào
hùng, như xi-nê. Hình ảnh hùng tráng nhất là, ở những đoạn sông rộng, mấy chiếc
forms (Truy Kích Đỉnh) hoặc PBR (River Patrol Boat – Giang Tốc Đỉnh) vừa
bắn trả vừa lướt nhanh trên mặt nước, trong tầm đạn xối xả của Việt Cộng. Hình ảnh
bi thảm nhất là những khi đoàn chiến đỉnh phải chuyển quân trên những đoạn sông
hẹp!
Trận
đánh ác liệt nhất mà tôi được mục kích xảy ra tại kinh Trèm Trẹm, thuộc tỉnh
Kiên-Giang, Rạch-Giá. Thời điểm đó ông Minh là thiếu tá, chỉ huy Giang Đoàn 26
Xung Phong. Vào một đêm tối trời, tôi thấy hỏa châu chập chùng hướng kinh Trèm
Trẹm – còn gọi là kinh Thứ – và từ máy
truyền tin tôi nghe tiếng kêu cứu từ đồn thứ 9. Thiếu tá Minh trực tiếp liên lạc
với đại tá Tỉnh Trưởng xin chỉ thị. Đại tá Tỉnh Trưởng không chấp thuận cho
đoàn giang đỉnh đi tiếp cứu, vì Trèm Trẹm là một kinh đào tương đối hẹp, đại tá
sợ trách nhiệm! Đến khuya, từ máy truyền tin, lời kêu cứu khẩn thiết – hòa lẫn
với tiếng đại pháo của Việt Cộng – từ đồn thứ
9 vẫn vang lên từ máy truyền tin. Thiếu tá Minh tự động đưa đoàn giang đỉnh
vào đồn thứ 9.
Đến
nơi, dưới ánh hỏa châu, tôi thấy đồn thứ 9 không còn gì và quanh đồn lố nhố Việt
Cộng! Dưới sức tác xạ vũ bão của đoàn chiến đỉnh, Việt Cộng “chém vè”.
Một
trận chiến khác trên một kinh đào rất hẹp, thuộc quận Gia-Rai, Chương-Thiện.
Giang Đoàn 26 Xung Phong đụng độ dữ dội với Việt Cộng.
Nhờ
những chuyến hành quân đó, tôi thấy Quê Hương mình đẹp vô cùng. Người dân quê
nghèo nhưng tâm họ hiền hòa và họ rất thương Lính. Họ thấy Lính là họ cảm thấy
yên lòng như được nơi nương tựa. Khi nào chiến trận bùng nổ thì người dân chạy
về phía Lính Cộng Hòa.
Sở
dĩ Việt Cộng chiếm được nông thôn vì Việt Cộng dùng chính sách khủng bố, trả
thù. Nếu Việt Cộng chiến đấu một cách can trường, ngay thẳng, không man rợ – như Người Lính V.N.C.H. – thì không thể nào
Việt Cộng chiếm được nông thôn. Bằng vào thời gian phiêu bạc trên những chiến đỉnh
và căn cứ theo chiều dài lịch sử, kể từ ngày tôi đủ hiểu biết, thì chưa bao giờ
có cảnh đồng bào Việt-Nam chạy về phía Việt Cộng cả. Năm 1945, bao nhiêu đồng bào
rời miền Bắc để di cư vào Nam? Năm 1972 ai khai sinh ra Đại Lộ Kinh Hoàng? Cái
dã man tàn ác của Việt Cộng là Việt Cộng pháo kích ngay vào làn sóng người chạy
loạn, đi tìm sự bảo vệ từ phía Quốc Gia. Năm 1975, sau khi Việt Cộng “giải
phóng (!)” miền Nam, thống nhất đất nước, mà cả trên 30 ngàn người bỏ hết tất cả
để ra đi; dù họ không biết sẽ đi về đâu và đi để làm gì! Sau đó, biết bao ngàn
người phải liều chết trên biển để trốn khỏi một tập thể đầy ác tính? Từ đó Anh
ngữ mới phát sinh ra danh từ Boat People. Tôi tin tưởng rằng Người Lính
V.N.C.H. chiến đấu có lý tưởng, có chính nghĩa.
Rất nhiều người nhận định
rằng tác phẩm Hải-Quân V.N.C.H. Ra khơi, 1975 giống như một cuốn hải sử. Làm thế
nào chị có thể tìm được nhiều tài liệu, chi tiết như là sự tổ chức của Hải-Quân,
quân cụ và các chiến hạm, v.v… mà chị đã viết ra?
Thưa
anh, tôi gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện cuốn tài liệu Hải-Quân V.N.C.H.
Ra Khơi, 1975. Thời gian đó tôi còn đi làm, các con tôi đang học đại học và thời
điểm đó Internet chưa được thông dụng. Vì vậy, tôi chỉ có thể tận dụng hai
ngày cuối tuần để liên lạc bằng điện thoại. Tiền điện thoại viễn liên khá cao.
Có vị không trả lời bằng điện thoại, tôi phải “bay” đến để phỏng vấn, xin tài
liệu, thu băng rồi về viết lại. Từ nhân vật này tôi tìm ra nhân vật khác. Tỷ dụ
trung tá Nguyễn Văn Nhượng – Hạm Trưởng
HQ505 – cho tôi biết về cuộc rút quân tại Chu-Lai thì cũng chính Hạm Trưởng Nhượng
cho tôi biết thời điểm HQ505 tiến vào Chu-Lai thì có những chiến hạm nào khác,
Hạm Trưởng những chiến hạm đó là ai, v.v…Tôi thuộc vào gia đình Hải-Quân từ năm
1962 cho nên nhiều người biết tôi. Họ biết tôi có những hoạt động âm thầm nhưng
đáng tin. Đại Gia Đình Hải-Quân cũng nhận thấy rằng việc làm của tôi rất hữu
ích, để ghi lại những biến chuyển trọng đại của lịch sử Việt-Nam cận đại qua cuộc
di tản vĩ đại do Hải-Quân V.N.C.H. thực hiện. Nếu không ai ghi lại thì Cộng Sản
Việt-Nam sẽ bóp méo lịch sử cho nên Đại Gia Đình Hải-Quân đã tận tình giúp tôi.
Tôi tốn rất nhiều công sức, thời gian – từ cuối thập niên 70 cho đến năm
1990 mới hoàn tất – và tiền bạc; nhưng
bù lại, tôi rất may mắn được sự giúp đỡ vô điều kiện của hầu hết sĩ quan, hạ sĩ
quan và thủy thủ, cũng như cựu trung tướng Vĩnh Lộc và ông Richard L Armitage.
Lúc
nào tôi cũng quý mến và hãnh diện về Người Lính và quân chủng Hải-Quân V.N.C.H.
Dân Sinh xin cảm ơn chị
rất nhiều; vì đây là dịp nhìn lại quá khứ 40 năm lịch sử mà chị là một trong những
nhân chứng và cũng là tác giả ghi lại những biến cố và sự kiện quan trọng của lịch
sử. Bốn mươi năm nhìn lại, chị có ý nghĩ gì muốn chia xẻ với thính giả không?
Thưa
anh, ý nghĩ của tôi rất buồn. Bốn mươi năm qua mà Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn
không những không đồng nhất mà còn bị chia 5 xẻ 7 cho nên vấn đề đối đầu với Cộng
Sản Việt-Nam rất khó khăn. Cái khó khăn mà tôi nhận thấy và đã đưa vào truyện
ngắn là: Thế hệ anh và tôi biết V.N.C.H. như thế nào; thế hệ của các con của
anh và con của tôi có thể hiểu chút ít. Nhưng đến thế hệ cháu của anh và cháu của
tôi – thế hệ di dân thứ III – thì thế hệ thứ III này không biết V.N.C.H. là gì
cả!
Cộng
Sản Việt-Nam đưa rất nhiều sinh viên sang đây du học. Vấn đề bạn trai bạn gái
giữa sinh viên du học và thế hệ di dân thứ III làm sao có thể tránh được? Thế hệ
di dân thứ III được sinh ra và lớn lên trong một xã hội an bình, lương thiện, đạo
đức, có văn hóa cao, hoàn toàn khác biệt với môi trường của những sinh viên
sang đây du học và những người vợ người chồng được người Việt tỵ nạn về Việt-Nam
cưới đem sang đây. Những sinh viên du học hoặc vợ chồng “xuất cảng” từ Việt-Nam
– vì lớn lên trong một xã hội Việt-Nam không có đạo đức, thiếu văn hóa – đã đem
theo bản chất lừa lọc, dối trá, tham lam, ăn cắp, tàn ác. Những người “xuất cảng”
từ Việt-Nam sang đây không thực hiện những hành động tàn ác vì họ sợ pháp luật;
nhưng những lời nói độc hại, những lời nói thô tục, những lời nguyền rủa của họ
làm xáo trộn nếp sống văn minh và hiền hòa trong cộng đồng Việt-Nam tại ngoại
quốc.
Tuy
nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi vì Mỹ bỏ cấm vận cho Việt-Nam rất nhiều. Trong
tương lai, nếu Mỹ đưa cố vấn về Việt-Nam để huấn luyện cho quân đội Việt-Nam,
tôi hy vọng Mỹ sẽ chọn những sĩ quan Hoa-Kỳ gốc Việt – tức là hậu duệ của
Q.L./V.N.C.H.
Nếu
niềm hy vọng của tôi thành sự thật thì tôi mong sao những vị cố vấn Mỹ gốc Việt
đó hiểu rõ bản chất lừa đảo, gian manh, xảo trá của Cộng Sản Việt-Nam. Bản chất
của người Cộng Sản Việt-Nam là họ không có lòng thương người. Cha Mẹ, vợ chồng,
con cái mà họ còn đem đấu tố cho đến chết – trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất
– thì làm thế nào họ thương ai!
Xin cảm ơn chị Điệp Mỹ
Linh đã dành cho chương trình phát thanh hôm nay cuộc phỏng vấn này. Chúc chị sức
khỏe để viết về Nười Lính V.N.C.H.
Xin
cảm ơn quý thính giả. Xin cảm ơn anh Phạm Phú Nam đã giúp cơ hội để Điệp Mỹ
Linh được thố lộ những trăn trở và khắc khoải của mình.
(1)Sau khi bài phỏng
vấn này được phổ biến, Người Tưởng Đã Tự Tử từ HQ 502 – ông Nguyễn Viết Nhiễm
-- liên lạc với Điệp Mỹ Linh. Điệp Mỹ Linh có bài phỏng vấn ngắn dành cho ông
Nhiễm. Sau đó, ông Nhiễm nhờ Điệp Mỹ Linh giúp để Ông được liên lạc với Biệt Hải
Nguyễn Văn Kiệt -- người đã cứu ông Nhiễm trên biển, năm
xưa. Ông Nhiễm đã đưa vợ con xuyên bang đi thăm gia đình Biệt Hải Nguyễn Văn Kiệt.
Câu chuyện chiến tranh có đoạn kết rất đẹp!
(2)Theo sự giải
thích của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
(3)Ông Phạm Phú
Nam đã nhắc Điệp Mỹ Linh về chức vụ của HQ/ĐT Đỗ Kiểm