Lev Tolstoi mở đầu cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Anna Karenina với một câu vẫn được các người yêu văn chương nhắc lại hơn một thế kỷ qua: “Các gia đình hạnh phúc đều giống nhau, mỗi gia đình bất hạnh thì bất hạnh theo cách riêng.” Các chế độ cộng sản chiếm được chính quyền cùng một cách, nhưng khi suy tàn thì mỗi đảng tan rã theo một cách khác nhau.
Các đảng cộng sản lên nắm quyền đều dùng bạo động và thủ đoạn bất chấp đạo lý, trong khi các đối thủ của họ đều còn sống trong những quy tắc luân lý quen thuộc của cả xã hội. Giữa một đám nhiều người đang tranh đấu với nhau, kẻ nào xảo quyệt và tàn bạo nhất sẽ tiêu diệt những người thành thật và lương thiện, những người bị gọi là “ngây thơ”. Hoặc Mao nêu khẩu hiệu: “Súng đẻ ra quyền.” Lenin nói, “Chiến tranh là bà mụ đỡ cho cách mạng.”
Nhưng khi các chế độ cộng sản ở Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ thì mỗi nơi tan hàng theo một kiểu riêng. Ðảng Cộng Sản Ba Lan tự chuyển giao chức thủ tướng cho một luật sư của Công Ðoàn Ðoàn Kết sau khi cả bộ chính trị hoàn toàn bế tắc trong cảnh kinh tế suy sụp. Cộng sản Ðông Ðức chịu thua để bức tường Berlin bị phá sập sau khi dân chúng hàng loạt kéo nhau vượt biên qua phía Tây; dân thành phố Leipzig từ nhà thờ đi ra diễn hành trong im lặng liên tiếp; cảnh sát công an ở, Dresden từ chối không bắn vào những đồng bào đi biểu tình. Cộng sản Tiệp Khắc phải nhượng bộ ý nguyện của người dân, sau các cuộc biểu tình thủ đô. Hungary đã bắt đầu thay đổi từ thời năm 1980, đợi đến năm 1989 chế độ sụp đổ một cách ôn hòa. Cộng sản Rumania hoàn toàn nhắm mắt bịt tai, cưỡng lại đến cùng; đưa tới cái chết thảm khốc của vợ chồng Nicolae Ceaucescu, nhà lãnh tụ sau cùng. Tại Bulgaria, vừa nghe tin tường Berlin sập Bộ Chính Trị bèn họp nhau cách chức Tổng Bí Thư Todor Zhivkov, cầm quyền suốt 35 năm, rồi giải tán đảng, sửa hiến pháp, tổ chức bầu cử để vẫn được nắm chính quyền. Cộng Sản Nga tự ý bắt đầu thay đổi từ thời Gorbachev để tự cứu vãn, hy vọng nhờ thế đảng sẽ cai trị lâu dài hơn. Nhưng cuối cùng không tự cứu nổi, vì đã hết thuốc chữa. Một yếu tố quyết định tình trạng sụp đổ của các chế độ cộng sản trên là trình độ nhận thức của người dân trong các nước đó được nung nấu đến mức chín mùi. Khi chế độ sụp đổ, mọi người đều thở phào nhẹ nhõm, kể cả các đảng viên. Không một chi bộ đảng nào đưa một ngón tay ra để cứu đảng.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam sẽ tan rã như thế nào? Cần nêu lên câu hỏi này, càng sớm càng tốt. Thứ nhất, vì điều đó chắc chắn xảy ra. Tình trạng nội bộ của họ đang tan rữa, ung thối, không thấy cách cứu chữa. Trong khi đó trình độ nhận thức của người dân Việt Nam đang dâng cao. Một cô sinh viên ngoài 20 tuổi Nguyễn Phương Uyên, đứng trước tòa án giữa đám công an chìm nổi vẫn thản nhiên nói: “Tôi chống đảng chứ không chống nước Việt Nam”.
Thứ hai, cần nhìn thấy trước cảnh đảng Cộng Sản tan rã để người Việt cùng nhau chuẩn bị sẵn sàng việc xây dựng chế độ dân chủ tự do sắp tới. Phải chuẩn bị sớm, nếu không sẽ lúng túng trong thời gian chuyển tiếp, càng kéo dài quá lâu càng tai hại cho tương lai dân tộc. Kinh nghiệm ở Ðông Âu và tại các nước thuộc Liên Bang Xô Viết cũ cho thấy: Thay đổi nhanh chóng thì trong 20 năm kinh tế phồn thịnh, xã hội ổn định xong rồi; còn nếu để thời kỳ chuyển tiếp kéo dài thì 30 năm sau vẫn lúng túng. Bây giờ, việc xóa bỏ chế độ cộng sản không phải là điều khó nữa, vì trước sau chính họ sẽ tan rã. Nhưng công việc xây dựng lại nền tảng mới cho đất nước sau đó sẽ khó gấp bội. Khó nhất là vì cả nền móng xã hội đã bị phá hư nát từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới. Cho nên người Việt Nam cần thảo luận với nhau ngay từ bây giờ những chuẩn bị tương lai, khi đảng Cộng Sản vẫn chưa tan hàng.
Dù đảng Cộng Sản sẽ đến ngày tan rã, nhưng chắc sẽ tan hàng theo một cách khác với các chế độ Ðông Âu hay Nga. Người Việt Nam sống trong một nền văn hóa khác các nước Âu Châu mà lại giống với dân các nước ở Á Ðông. Các nước Nam Hàn, Ðài Loan đã từng chuyển từ các chế độ độc tài sang dân chủ sau những cuộc biểu tình của sinh viên và công nhân, nhiều lần bị đàn áp đẫm máu nhưng cuối cùng vẫn thắng lợi. Nhưng Việt Nam cũng khác với hai nước này; vì chính quyền nước họ không chịu nhục khi bị ngoại bang khống chế, như ảnh hưởng của Trung Cộng đang đè nặng trên nước ta. Gần đây nhiều người đã coi Miến Ðiện như một tấm gương mà Việt Nam có thể noi theo. Nhưng nếp sống của người Miến Ðiện cũng ôn hòa hơn người Việt, mà chế độ độc tài ở đó không tàn ác và gian dối tinh vi như các chế độ cộng sản trên thế giới. Những lãnh tụ độc tài ở cả ba nước Nam Hàn, Ðài Loan và Miến Ðiện đều được giáo dục và sống theo đạo lý cổ truyền của dân tộc họ, không ai nhắm mắt theo một “tín ngưỡng” mới như các lãnh tụ cộng sản ở Châu Âu hay Châu Á. Cho nên, khó tưởng tượng Cộng sản nước ta sẽ tan theo “kịch bản” nào khi biến chuyển xảy ra, mà cũng không nên phí thời giờ ngồi tưởng tượng.
Chính trong đảng Cộng sản hiện nay cũng nhiều người nói đến một cuộc “thay máu” cho đảng, để tự cứu vãn. Nhưng một đảng đang nắm quyền với những nhóm trong nội bộ đang hưởng đủ thứ lợi lộc nhờ khai thác quyền hành thì rất khó thay máu. Nhiều đảng viên muốn thay đổi không được, đã âm thầm ngưng hoạt động hoặc rút ra khỏi đảng. Một số người còn làm đơn xin ra đảng, như vào năm 2009, nhà văn Phạm Ðình Trọng xin ra đảng, rồi sau đó bị đảng tuyên án khai trừ để triệt hết các quyền lợi của đảng viên mà ông đại tá này được hưởng. Năm nay ông Lê Hiếu Ðằng đã “tính sổ đời mình” từ lúc gia nhập đảng Cộng sản cho tới những ngày nằm trong bệnh viện có thời giờ suy nghĩ lại. Ngày 4 Tháng Mười Hai 2013 khi ông Lê Hiếu Ðằng tuyên bố rời đảng, thành lập đảng mới. Lời tuyên bố công khai bỏ đảng của Lê Hiếu Ðằng có thể tạo nên một làn sóng bỏ đảng trong thời gian tới. Sau ông Ðằng tới lượt Bác Sĩ Nguyễn Ðắc Diên. Nhà báo Phạm Chí Dũng đã nối gót hai người này. Phạm Chí Dũng đã từng đậu tiến sĩ, từng là nhân viên ngành an ninh, đã công bố việc từ bỏ đảng của mình để gây tiếng vang, và anh đã thành công. Khi đảng ủy Viện Nghiên Cứu Phát Triển họp yêu cầu anh xét lại, Phạm Chí Dũng từ chối. Ðến khi họ bỏ phiếu có 60% đảng viên dự phiên họp không đồng ý khai trừ, cho thấy họ hiểu hành động của anh có lý do chính đáng; nhưng cuối cùng nhóm lãnh đạo vẫn tuyên bố khai trừ.
Hiện tượng trên cho thấy đảng cộng sản thực sự đang tan rã, không cách nào tránh được. Theo Phạm Chí Dũng, hiện nay trong ba triệu đảng viên cộng sản có chừng 30% còn gắn bó với đảng vì các quyền lợi họ đang hưởng nhờ nắm các chức vụ. Ngoài ra, một nửa là những người không dám bỏ đảng nhưng chỉ xu thời, gió chiều nào xoay chiều đó. Nếu một biến cố lớn xảy ra, họ sẽ tự tan hàng mà không nuối tiếc. Một số nhỏ đảng viên cũng muốn đảng Cộng sản trả lại quyền tự do cho người dân, chấp nhận các đảng chính trị khác, bỏ độc quyền cai quản đất nước. Nhưng họ có khả năng làm cho đảng Cộng sản tự thay đổi để dân Việt Nam được sống trong dân chủ tự do hay không?
Những người này có thể học kinh nghiệm của Mikhail Sergeyevich Gorbachev, tổng bí thư sau cùng của Cộng Sản Liên Xô. Trong một cuộc phỏng vấn bởi phóng viên Jonathan Steele, báo The Guardian, Anh Quốc hai năm trước đây, Gorbachev nói điều ông hối hận nhất là vào những năm 1990, 91 ông vẫn cố gắng cải tổ cơ cấu chế độ, nấn ná quá lâu nhưng vô ích. Ông nói, đáng lẽ phải nhất quyết từ chức vào Tháng Tư năm 1991, rồi cùng một số người trong Trung Ương Ðảng thành lập một đảng chính trị mới.
Vào Mùa Xuân năm đó, trong nội bộ đảng Cộng Sản Liên Xô cũng có hai khuynh hướng, nhóm bảo thủ muốn ngưng ngay các chính sách đổi mới, nhóm cấp tiến muốn bước vào đường dân chủ hóa. Trong một cuộc họp của Trung Ương Ðảng, phe bảo thủ yêu cầu tuyên bố tình trạng khẩn cấp, chấm dứt chính sách cởi mở, kiểm duyệt báo chí gắt gao hơn, Gorbachev đã phản ứng lại rất mạnh, ông nói: “Tôi đã mỵ dân quá đủ rồi. Tôi sẽ từ chức.”
Trong cuộc phỏng vấn với báo The Guardian Gorbachev kể lại rằng, “Bộ Chính Trị triệu tập một phiên họp trong 3 giờ đồng hồ mà không có tôi. Ba giờ đồng hồ sau họ đến mời tôi trở lại và yêu cầu tôi rút lại quyết định từ chức.” Sau đó Gorbachev bèn rút lại quyết định từ chức và cũng không có ai muốn đưa vấn đề này ra biểu quyết. Bây giờ ông hối hận, đáng lẽ ông phải cương quyết rút lui để thành lập một đảng mới, với chủ trương tự do dân chủ. Vì trong thời gian đó đã có hàng trăm ủy viên Trung Ương Ðảng đang bàn nhau, đồng ý tách ra lập một đảng mới rồi. “Nhưng lúc đó tôi lại cảm thấy mình không có quyền ‘từ bỏ đảng,’” ông thú nhận. “Bây giờ thì tôi nghĩ là đáng lẽ tôi phải lợi dụng ngay cơ hội đó để thành lập một đảng mới và phải kiên quyết từ bỏ đảng Cộng sản bằng được.”
Trong thời gian Gorbachev đang phân vân giữa hai con đường như trên, đảng Cộng Sản Việt Nam cũng bỏ mất một cơ hội khi họ gạt bỏ các đề nghị cải cách của Trần Xuân Bách, người rút ra bài học Ðông Âu sớm nhất. Họ đã theo Nguyễn Văn Linh, quay đầu xin Trung Cộng che chở, để cùng tiếp tục “tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội”. Hậu quả là mối nhục Thành Ðô sẽ ghi mãi trong lịch sử.
Hiện nay trong đảng Cộng sản cũng không có người nào có tư thế và khả năng như Gorbachev. Chỉ có những đảng viên như Lê Hiếu Ðằng mới can đảm tuyên bố công khai từ bỏ đảng, và thành lập đảng mới. Khi số người can đảm như Lê Hiếu Ðằng, Phạm Chí Dũng, Phạm Ðình Trọng, vân vân, đông đúc hơn, họ sẽ không chỉ từ bỏ đảng một mình mà còn góp công xóa bỏ ách độc tài đang đè lên đầu lên cổ đồng bào.
Tháng Bảy năm 2012, mục này đã kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy tạo một phong trào từ bỏ đảng. Khi rất nhiều đảng viên công khai bỏ đảng, guồng máy trừng phạt và trả thù sẽ hết hiệu lực. Các đảng viên khác sẽ hết sợ. Khi số đảng viên công khai bỏ đảng lên cao, đến lượt dân chúng được giải phóng về tâm lý. Người dân bị xử oan ức không còn sợ nữa, giới thanh niên, phụ nữ, trí thức, các người lãnh đạo tôn giáo, người lao động sẽ cùng mạnh dạn đứng lên đòi các quyền tự do căn bản của mình. Một phong trào phản kháng bất bạo động như thế chắc chắn sẽ làm cho guồng máy cường quyền phải chịu thua.