Đọc sách HAI MƯƠI NĂM MIỀN NAM 1955 – 1975
của NGUYỄN VĂN LỤC
Người đọc: Phạm Phú Minh
Nhan đề sách gợi một cảm tưởng rất mông lung, dù là nhìn không gian ấy, thời gian ấy thì ai cũng biết là nói về Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng là về những đề tài gì?
Nhà xuất bản cho biết:
“Tác phẩm của ông có thể gọi là ký sự, là sưu tập, là nhận định, là tạp luận…, nhưng quan trọng hơn hết không phải là tên gọi mà là chính tác động gợi nhắc từ những con người, những sự kiện đã ghi dấu một thời oan nghiệt của nhiều thế hệ con dân Việt Nam, trong đó có Nguyễn Văn Lục đã hiện diện như một chứng nhân và cũng là một nạn nhân.”
Qua 16 vấn đề được đề cập, dù là về chính trị, văn học hay báo chí, tác giả luôn luôn có một cố gắng, xuyên qua khảo sát vô số sự kiện và tài liệu, đi tới tận cốt lõi của vấn đề, vốn là thói quen của những người thường sống với các suy nghĩ triết học.
Có thể nói với cách viết của ông, đề tài nào cũng lôi cuốn, vì ông rất chịu khó sưu tầm tài liệu rất phong phú “nói có sách mách có chứng”, kèm theo các nhận định riêng của mình.
Trong phần 1,
Sinh hoạt chính trị miền Nam, chương
“Trí thức miền Nam nhập cuộc” đã đưa ra một vấn đề
ít người để ý nhắc tới khi viết về Việt Nam Cộng Hòa.
Người ta đã viết nhiều sách khen hay chê Tổng thống Ngô Đình Diệm, về các thành tựu đáng ca ngợi trong việc ổn định tình hình trong thời gian rối ren trước khi nền Cộng Hòa được khai sinh, về Ấp Chiến Lược, về vụ Phật Giáo v.v…, nhưng về trí thức, lớp men của xã hội, thì lại không mấy người quan tâm. Lý do dễ hiểu là phần lớn đều viết dựa trên sự kiện và biến cố, trong khi trí thức là một cái gì gần như vô hình, dù là có ảnh hưởng quan trọng trong một xã hội.
Bài này sẽ đề cập riêng về chương
“Trí thức miền Nam nhập cuộc”,
như một chia sẻ rất trân trọng và tâm đắc với cách đặt và trình bày vấn đề của tác giả. Dĩ nhiên cuốn sách còn nhiều chương rất đáng chú ý, xin được hẹn sẽ đề cập trong dịp khác.
( Một số sách xuất bản trước 1975 tại Miền Nam Việt nam)
Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh giữa một tình thế vô cùng khó khăn,nhưng đã ổn định tình hình nhanh chóng và lập nên nền Cộng Hòa cho miền Nam. Nhiều tầng lớp dân chúng, trong đó có trí thức, ủng hộ chính quyền.Giáo sư Vũ Văn Mẫu trong buổi bình minh của chế độ đã có nhận xét là mọi người đánh giá cao Ngô Đình Diệm trong cương vị một tân tổng thống và nhắc đến
“quá khứ trong sạch của Ngô Đình Diệm khi làm việc quan, tính tình khí khái của ông khi từ chức thượng thư Bộ Lại trong nội các đầu tiên của Bảo Đại.”
Từ giữa đến cuối thập niên 1950 tình hình thật tốt đẹp, mặc dù từ đầu chương, tác giả đã lưu ý tình trạng thiếu vắng trí thức của miền Nam do họ đã bị giết hại quá nhiều do thực dân Pháp và nhất là do Đệ tam quốc tế cộng sản: Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ, Trần Văn Thạch v.v…
Nhưng bù vào đó, rất nhiều trí thức từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, và chính quyền đã cử nhiều sứ giả đi ngoại quốc, tiếp xúc, lôi kéo lớp khoa bảng Việt Nam mới tốt nghiệp ở các nước phương Tây về nước tham gia chính quyền hoặc giảng dạy đại học.
Tác giả đã có những ghi nhận chính xác:
“Vào thời gian này, cuộc sống người dân đã có nhiều cải tiến. Về giáo dục, các trường tiểu học, trung học được thành lập từ cấp tỉnh đến quận. Về y tế, mỗi tỉnh đều có trạm y tế và nhà thương.
Vấn đề đào tạo giáo viên, y tá, cán sự y tế, giáo sư trung học được đẩy mạnh.
Các trường đại học, kỹ thuật, hành chánh, các trường võ bị mỗi năm đã đào tạo một số lượng chuyên viên, sĩ quan đáp ứng đủ nhu cầu.”
Chính quyền đệ nhất cộng hòa đã đặt để những nền tảng vững chắc cho một xã hội ổn định, để từ đó phát triển đất nước.
Thế nhưng:
“Nếu những năm đầu của nền đệ nhất Cộng Hòa từng tạo cảm tưởng tổng thống Diệm đang nắm thế mạnh thì diễn biến thực tế cho thấy thời kỳ ổn định chính trị kéo dài không lâu. Năm cuối cùng của thập niên 1950, dấu hiệu bất mãn trong quần chúng đã hiển hiện. Stanley Karnov đi thăm nhiều vùng và nhận thấy dân chúng bắt đầu mất tin tưởng chính quyền vì tình trạng tham nhũng đã thành phổ biến. Những năm tháng tốt đẹp của nền đệ nhất cộng hòa đã rạn nứt.”
Tình trạng rạn nứt đó là có thật và ngày càng trầm trọng.
Vì sao đang từ sự tốt đẹp trong những năm đầu, lại bắt đầu manh nha nhiều bất mãn trong dân chúng?
Có thể từ hai lý do: khách quan, cộng sản bắt đầu phá hoại, lấn chiếm ở nông thôn, gây tình trạng bất an ninh; chủ quan, chính quyền không thực hiện sự đoàn kết rộng rãi với những nhân vật và đảng phái chống cộng khác đã có mặt ở Việt Nam từ lâu năm, đã từng cọ xát với cộng sản nhiều phen như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt v.v…, khi ông Ngô Đình Diệm còn “lê gót nơi quê người.”
Càng ngày chính quyền càng tỏ ra một sự kiêu hãnh cục bộ, khá hẹp hòi, tự thấy mình đầy đủ năng lực từ lý thuyết cần lao nhân vị đến đoàn thể thanh niên thanh nữ cộng hòa, lực lượng giáo dân di cư, và dĩ nhiên của guồng máy hành chánh và quân đội đang nắm trong tay, để không những từ chối đối thoại với thành phần quốc gia đối lập mà còn bắt bớ, giam cầm và cả thủ tiêu.
Tác giả Nguyễn Văn Lục đã có một nhận định rất đúng khi đưa ra việc lên tiếng của nhóm Caravelle như là một phản ứng, một cảnh cáo đầu tiên của giới trí thức trước tình thế đất nước lúc ấy.
Đó là “tình trạng bất mãn thực sự công khai hóa vào ngày 26 tháng 4 năm 1960 với sự kiện 18 nhân sĩ trí thức tiêu biểu của miền Nam họp báo tại khách sạn Caravelle phổ biến bản tuyên ngôn gửi tổng thống Ngô Đình Diệm. Ký tên trên bản tuyên ngôn gồm các nhân vật Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỷ, Trần Văn Đỗ, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Trần Văn Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất và linh mục Hồ Văn Vui.”
Trước tiếng nói bắt nguồn từ sự ưu tư thật sự của nhóm trí thức tiêu biểu ấy, phản ứng của chính quyền tỏ ra thô bạo: ngay ngày hôm sau tổng thống Diệm ra lệnh bắt giam hầu hết những người ký tên trong bản tuyên ngôn.
Tình thế cứ thế mà xấu đi, với cuộc đảo chánh của Nguyễn Chánh Thi vào tháng 11, 1960, trận ném bom dinh Độc Lập của Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử vào năm sau, và năm sau nữa, 1963, với phong trào Phật giáo, kết thúc bằng vụ đảo chánh ngày 1 tháng 11, chấm dứt Đệ nhất Cộng Hòa.
Thái độ của trí thức miền Nam trong chín năm cai trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm có thể chia làm hai giai đoạn. Khoảng năm năm đầu, nói chung ủng hộ chế độ (hoặc nếu không thì cũng không chống đối) tiêu biểu như nhận định của giáo sư Vũ Văn Mẫu nêu trên.
Bốn năm sau thì có vẻ có tình trạng “tức nước vỡ bờ”, thoạt đầu là làm tuyên ngôn nhẹ nhàng nhưng được nhận ngay sự đàn áp, tiếp theo mạnh mẽ hơn, là đảo chánh, dội bom, và cao điểm là vụ Phật giáo năm 1963, với sự tham gia tích cực của hầu như toàn xã hội, với sự dấn thân rõ rệt của giới trí thức.
Theo Nguyễn Văn Lục, trong vụ Phật giáo có ba biến cố quan trọng đẩy mạnh nhanh chóng sự sụp đổ của chế độ:
Theo Nguyễn Văn Lục, trong vụ Phật giáo có ba biến cố quan trọng đẩy mạnh nhanh chóng sự sụp đổ của chế độ:
vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức,
vụ tự sát của nhà văn Nhất Linh,
và sự kiện giáo sư Vũ Văn Mẫu quyết định từ chức bộ trưởng Ngoại giao kèm theo việc cạo đầu phản đối guồng máy chính quyền.
vụ tự sát của nhà văn Nhất Linh,
và sự kiện giáo sư Vũ Văn Mẫu quyết định từ chức bộ trưởng Ngoại giao kèm theo việc cạo đầu phản đối guồng máy chính quyền.
Đó có thể coi là những hành động đóng góp tích cực nhất của giới trí thức nhằm làm biến đổi cuộc diện chung.
Từ tuyên ngôn của nhóm Caravelle đến sự dấn thân trọn vẹn trong cuộc đấu tranh Phật giáo, giới trí thức như bước hẳn vào một sự bùng vỡ của ý thức, mà trong khung cảnh yên bình của những năm đầu họ hầu như không có.
Từ tuyên ngôn của nhóm Caravelle đến sự dấn thân trọn vẹn trong cuộc đấu tranh Phật giáo, giới trí thức như bước hẳn vào một sự bùng vỡ của ý thức, mà trong khung cảnh yên bình của những năm đầu họ hầu như không có.
Sự bùng vỡ đó đã lên đến cao độ trong những năm đầy xáo trộn từ 1963 đến 1975, với các vụ chỉnh lý liên miên, rồi quân Mỹ đổ bộ vào Việt Nam, rồi biến cố Mậu Thân, chiến tranh ngày càng khốc liệt, hội nghị Paris, Việt Nam hóa chiến tranh, hiệp định đình chiến…
Nguyễn Văn Lục đã theo sát nhịp độ chuyển biến của giới trí thức với nhận định:
“Thời kỳ mới do phong trào Phật giáo 1963 mở ra chính là thời kỳ giới trí thức Việt Nam chọn lựa thái độ dấn thân đấu tranh thay vì giới hạn đóng góp trong phạm vi chuyên môn như từng có.”
Quả thật, sau vụ đảo chánh 1963, sinh hoạt của giới trí thức trở nên năng động hẳn,
với một ý thức cao về vai trò của mình đối với đất nước và xã hội, khác hẳn vai trò mờ nhạt của họ trong thời đệ nhất Cộng Hòa.
Đặc biệt nổi bật sự tham dự của giới trí thức trẻ, “thay vì chọn lựa quay lưng với xã hội là chọn lựa phải đấu tranh chống lại mọi áp bức, bạo lực bất cứ từ đâu tới,” nhưng lắm khi vì quá hăng say,
“họ lao theo mọi lời kêu gọi đấu tranh, bất kể hành động của mình có thể bị các thế lực giấu mặt ở hậu trường khai thác ra sao.”
Sau mấy năm rối loạn, đã xuất hiện phong trào trí thức khuynh tả.
“Trí thức khuynh tả ra đời trong hoàn cảnh này và có nhiều dạng với một số tên tuổi ở Sài Gòn như
Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung,
Lý Chánh Trung, Thế Nguyên, Phan Khắc Từ, Ngô Bá Thành, Ngô Công Đức,
Lý Quý Chúng, Nguyễn Hữu Chung, Trần Ngọc Liễn..
. Ở miền Trung có Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần…”
Phần đông họ dùng báo chí để biểu hiện nhiều xu hướng chính trị khác nhau như chống Mỹ, chống chiến tranh, kêu gọi hòa hợp hòa giải, kêu gọi hòa bình, cổ võ giải pháp cách mạng về một xã hội không cộng sản…
Đó dĩ nhiên là tiếng nói lương tâm giữa một đất nước đang tan nát dưới bom đạn của một trận chiến không do mình chọn lựa, thế nhưng: “trên một đất nước bị đặt dưới họng súng của hai phe đang nắm giữ quyền lực thì lời hô suông sẽ dựa trên căn bản nào để biến thành thực tế, đặc biệt lại tin rằng có thể hòa hợp hòa giải với cộng sản.”
Vì thế tác giả Nguyễn Văn Lục đã nhận định:
“Vì thế trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam không thể trút bỏ hoàn toàn cho Mỹ
mà cần phải thành thực nhìn nhận phần lớn thuộc về sự lạc hướng trong đấu tranh của người miền Nam,
đặc biệt là giới trí thức ở mọi thế đứng.”
Chúng tôi cho rằng chương “Trí thức Miền Nam nhập cuộc”
là một chương rất quan trọng trong cuốn sách Hai Mươi Năm Miền Nam của Nguyễn Văn Lục.
Trong biết bao yếu tố để cấu thành quốc gia cũng như để biến đổi quốc gia ấy,
tác giả đã nhìn ra yếu tố quan trọng nhất, giống như người xưa đã nhận định “trí thức là nguyên khí của quốc gia”.
Tác giả đã có thái độ tôn trọng giới trí thức và đã đặt để họ vào một vị trí cao khi viết về lịch sử,
một thái độ ít thấy trong những cây bút viết về hai mươi năm tồn tại của Miền Nam.
Tác giả đã theo dõi kỹ lưỡng và công bằng sự vận động của nhiều giới trí thức song song với các biến chuyển của chính tình miền Nam, phân tích cái được, cái không được của họ, và đã tỏ ra tiếc là miền Nam đã thiếu hẳn một “hòn đá có sức chuyển hướng lịch sử” như câu đề từ ở đầu bài trích của E. Mounier:
“Đôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho kẻ cứng đầu, và một hòn đá đặt đúng chỗ, có thể chuyển hướng cả một dòng sông.”
Nhưng dù thành dù bại, sự thức tỉnh của giới trí thức, sự dấn thân của họ luôn luôn cần thiết cho xã hội, dù là xã hội của Nam Việt Nam cách đây nửa thế kỷ, hay xã hội của Việt Nam trong ngày hôm nay.
Sự dấn thân của họ như một ngọn đuốc, như một tiếng nói lương tâm để rọi sáng những vùng tối tăm còn bao phủ trên đời sống của người dân.
Viết về giới trí thức cũng là một cách nhắc nhở cho tất cả thành viên của giới này về vai trò của họ,
và nhắc nhở cho cộng đồng dân tộc hãy biết tôn trọng và lắng nghe những tiếng nói đại diện cho lương tri của chính dân tộc ấy.
Phạm Phú Minh.
“Hai mươi năm Miền Nam 1955-1975”, tiểu luận của Nguyễn Văn Lục, 512 trang,
Tiếng Quê Hương xuất bản, giá US$20.00, sách giao tận nhà thêm $3.00 bưu phí.
Liên lạc với nhà xuất bản: Tủ sách Tiếng Quê Hương, P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044 – USA.