Khi gia đình đến
định cư tại Hagen, Dr Rupert Neudeck xong trung học vào đại học theo phân khoa thần học, triết học, xã hội học
tại đại học Bonn, Münster và Salzburg. Năm 1961 ông gia nhập Dòng Tên, nhưng ít
năm sau ông ra khỏi Dòng và tiếp tục học. Năm 1972, ông đậu bằng tiến sĩ triết
học và lập gia đình, vợ là bà Christel có 2 con gái 1 con trai là: Yvonne, Milena , Marcel
và 1 cháu ngoại. Ngoài đời ông còn có hàng trăm ngàn con cháu do bàn tay cứu vớt
của ông.
Khởi đầu ông làm nhà báo cho đài phát thanh Công giáo ở Köln và từ năm 1976 làm nhà báo tự do. Năm 1977, ông làm biên tập viên chính trị cho đài phát thanh Deutschlandfunk . Trước làng sóng người Việt vượt biển tìm tự do và nhiều thảm kịch về thuyền nhân ở Biển Đông gợi ông nhớ lại câu chuyện tỵ nạn của chính mình nhờ may mắn nên còn sống sót.
Năm 1979 vợ chồng
Dr Rupert Neudeck, Christel. sáng lập Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V.
(Ủy ban Cap Anamur/Bác sĩ cấp cứu Đức). Ủng hộ tổ chức này có các nhân vật nổi
tiếng của Đức như: nhà văn đoạt giải
Nobel Heinrich Böll, Helmut Schmidt, Alfred Biolek, Bruno Ganz, Norbert Blüm,
Peter Scholl-Latour, Frank Alte. Cùng một nhóm thân hữu thành lập Ủy ban
"Ein Schiff für Vietnam" và thuê tàu Cap Anamur có trọng tải 6600 tấn
dài 118,7 m, rộng 17m, cao 9m, hầm tàu 7,3m làm nhiệm vụ cứu các thuyền nhân Việt
Nam (chủ tàu ở Hamburg không lấy tiền
thuê chỉ cho mượn). Ngày 09.8.1979 lúc 15g23 do thuyền trưởng Klaus Buck tàu
CAP ANAMUR khởi hành từ cảng Kobe của Nhật ra Biển Đông với lòng nhân đạo cứu vớt
các thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ độc tài CS. Các bác sĩ, y tá phần lớn
người Đức làm việc thiện nguyện, trên tàu có một trực thăng do cựu thiếu tá
Pilot người Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam bay tìm, hướng dẫn các ghe thuyền lênh
đênh, mất định hướng trên
biển đến với tàu Cap Anamur. Thuỷ thủ đoàn là những người Phi, Cap Anamur I vớt
những ghe vượt biển trong hoàn cảnh „thập tử nhất sinh“. Tính đến tháng 5.1982,
Cap
Anamur I cứu được 9.507 thuyền nhân Việt Nam đưa vào
các trại tị nạn Sem Bawang (Singapor), Palawan, Bataan (Phi luật Tân), Galang
(Indonesia) tạm trú một thời gian ngắn chờ định cư Tây Ðức hoặc đến các đệ tam
quốc gia trên thế giới. Cap Anamur I hoạt động 22 tháng phải ngưng công tác
nhân đạo, ngày 25. 6. 1982 trở về cảng Hamburg, mang theo 287 thuyền nhân VN.
Ông Hans Voss chủ tàu không lấy tiền mướn, nhưng chi phí mỗi tháng cho Cap
Anamur. khoảng 400.000DM. Cap Anamur II. hoạt động từ tháng 3 đến tháng 6.1986
vớt 888 người, và mang 357 người về cảng Hamburg. Lần cuối cùng chính phủ Đức
chỉ nhận 22 người của Cap Anamur III và từ đó chấm dứt không nhận thêm thuyền
nhân Việt Nam. Cap Amur IV và Cap Anamur V tiếp tục hoạt động, tiếp tế lương thực
và nước uống, cứu người vượt biển thoát khỏi tay bọn hải tặc và đưa họ đến được
bến bờ bình an. Số người được Cap Anamur vớt trên 11 ngàn người, nhưng số người
được đoàn tụ gia đình trên 30 ngàn người. Bất cứ nơi nào có tiếng khóc than, cầu
xin là có ông tìm đến để giúp đỡ.
Hồi tưởng cuộc đời
tỵ nạn sau 30.4.1975 người Việt bất chấp mọi hiểm nguy đổi cả mạng sống để vượt
khỏi Việt Nam, nhiều nơi trên thế giới dựng bia, đánh dấu thời gian người Việt
Nam bỏ nước ra đi tìm tự do. Ngày 12 tháng 9 năm 2009, người Việt tại Đức dựng
tượng đài bằng đồng với bia tri ân Cap Anamur và nhân dân Đức tại cảng Hamburg.
Buổi lễ khánh thành và tri ân nước Đức được tổ chức trang trọng và có sự hiện
diện của Bộ trưởng nội vụ Wolfgang Schäuble, chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội (SPD)
Franz Müntefering, cựu thống đốc tiểu bang Niedersachsen Ernst Albrecht (người
đầu tiên nhận thuyền nhân vào Đức), ông Philipp Rösler bộ trưởng
kinh tế và nhiều nhân vật khác cùng hơn 1200 người Việt
Sau khi hoàn thành
sứ mạng nhân đạo cứu thuyền nhân Việt Nam, Uỷ Ban Cap Anamur vẫn tiếp tục giúp
đỡ cho nhiều người tỵ nạn chiến tranh xây dựng lại nhà cửa, trường học … Tháng
4 năm 2003 ông là người đồng sáng lập tổ chức hòa bình quốc tế Grünhelme eV (Mũ
bảo hiểm xanh lá cây) nhằm giúp xây dựng lại những trường học, làng mạc trong
các vùng bị chiến tranh tàn phá tại Congo Kosovo, Sudan, Syria, Iraq, Afghanistan, Nordafrika, Colombia, Ethiopia Haiti,
Macedonia
Albania v.v… và cả Việt Nam
Ông đã nhiều lần
tới thăm Israel và vùng lãnh thổ Palestine để tìm hiểu hàng rào ngăn cách mà
Israel đã dựng lên, cùng hiện trạng sinh sống của người Palestine ở Bờ Tây. Năm
2005 ông đã xuất bản quyển "Ich will
nicht mehr schweigen. Recht und Gerechtigkeit in Palästina" (Tôi sẽ không
im lặng nữa. Luật pháp và Công lý ở Palestine) nhằm bênh vực những người
Palestine và bị Hội hữu nghị Đức-Israel chỉ trích dữ dội.
Những thập niên
qua, trong việc cứu trợ nhân đạo, ông còn xuất bản nhiều tác phẩm phát xuất từ sự
rung động trái tim của ông bà Neudeck, như tác phẩm Die Menschenretter von Cap
Anamur; ông luôn hãnh diện về vệc cứu vớt thuyền nhân VN hội nhập thành công tốt
đẹp, thế hệ thứ II trở thành những công dân ưu tú của nước Đức luôn bảo tồn văn
hoá và bản sắc dân tộc.
Năm 2009 kỷ niệm
30 năm người Việt tại München, ông viết trong Đặc San Hồi tưởng đời Tỵ Nạn. „Người Đức chúng ta, giờ đây bao gồm cả
80.000 người Đức gốc Việt, hãy nhận như một lời nguyện suốt đời. Bất kỳ nơi
đâu, trên mặt đất, dưới nước hay trên trời, nếu có người bị tra tấn, hành hạ, bị
theo dõi, xua đuổi, bị đánh đập, ép buộc lao động, bị giam giữ dưới các chế độ độc
tài, chúng ta phải can thiệp cho họ.“
Ngày 09.8.2014 tại
Hamburg kỷ niệm 35 năm tỵ nạn của người VN và
cũng là sinh nhật thứ 75 của ông, mọi người đều chúc tụng mong ông khoẻ mạnh sống
lâu, để ông giúp những người chạy trốn chế độ độc tài, chiến tranh bớt khổ đau.
Ông bị bệnh tim
được giải phẩu chửa trị nhiều lần, dù sức yếu nhưng ông thường bay đến nhiều nơi
vận đông giúp đỡ làn sóng người tỵ nạn Syrien và Phi châu bị chết đuối trên biển
Điạ Trung Hải… nhưng cuộc đời không tránh khỏi quy luật của tạo hóa „sinh lão bệnh
tử“. Ngày 31.5.2016 ông qua đời hưởng thọ 77 tuổi, trong sự thương tiếc của Cộng Đồng Người Việt tại Đức cũng
như trên thế giới.
Ông Ulrich
Kasparick, cũng là bạn của TS Rupert Neudeck, ngỏ ý trước sự ra đi của TS
Neudeck“, trái tim của Rupert lớn đến nỗi
không ai có thể mổ tim ông được, tim ông đủ chứa được toàn thế giới.
Tiến sĩ Wolfgang
Thierse, cựu chủ tịch Quốc Hội Đức, đã phát biểu trong buổi lễ : „Ủy Ban CAP ANAMUR và HỘI MŨ XANH đều là hai
tổ chức nhân đạo nhỏ bé có tính cách gia đình và không bị ràng buộc vào những
thủ tục hành chánh rườm rà, nhưng là một ràng buộc liên kết vĩ đại của trách
nhiệm dấn thân của từng cá nhân, lòng đam mê, sự căng thẳng, tính bền chí và nỗi
hân hoan trong từng dự án nhân đạo. Ông nói tiếp: „Lòng đam mê hoạt động nhân đạo
cứu người của ông bà Christel và Rupert Neudeck đã truyền nhiễm đến rất nhiều
người, để từ đó họ tích cực trực tiếp hỗ trợ hoặc đóng góp tài chánh cho tổ chức
nhân đạo của ông bà“. Ông cũng ngỏ lời khen ngợi: „Ông bà Neudeck đã đóng góp một
phần nào đó để bộ mặt của nước Đức được tươi sáng hơn“.
Đài truyền hình
WDR của Đức dùng một danh từ "Menschenfischer"
- "Kẻ chài lưới người" để nhắc đến ông Dr. Rupert Neudeck, tờ báo
khác lại nhắc đến ông Neudeck với một danh gọi khác trong Phúc Âm là người
Samaritanô nhân hậu thương người. Người Việt Nam chúng ta gọi ông là một vị Thánh,
một Bồ Tác, Tin ông qua đời nơi nào có Cộng Đồng Việt Nam dù Công Giáo hay Phật
Giáo đều có Thánh lễ, cầu kinh trang trọng để tưởng niệm người đại ân nhân của
chúng ta .
Tổng thống Đức
Joachim Gauck khen ngợi Dr. Rupert Neudeck là một người chiến đấu cho con người
gặp khó khăn. Số phận của những người nghèo ở các khu vực xung đột luôn ở trong
trái tim của ông. "Ông Neudeck đã thấy
và đã hành động - và kéo dài suốt đời." Công việc của ông Neudeck là một
"tấm gương sáng nhân hậu từ một cá
nhân có thể làm được. Dr. Rupert luôn luôn là một tấm gương cho chúng ta."
Ngày14 tháng Sáu
lễ tưởng niệm Dr. Neudeck tại Thánh đường St Aposteln do Tòa Tổng Giám Mục Giáo
phận Köln tổ chức và Đức Hồng Y Rainer Maria Woelki chủ lễ, với 12 linh mục người
Việt, có những LM ngày xưa được tàu Cap Anamur cứu vớt.
Lúc 10 giờ người
con trai của ông Neudeck mang tấm hình lớn của thân phụ để trên giá cao bên phải
Cung Thánh và một bó hoa của nhà thờ, tấm hình với đôi mắt nhìn xa như chờ đón
những người con trở về, chính đôi mắt thiên thần đó từng nhìn thấy nỗi đau của những
con người bất hạnh, bị đàn áp và chạy trốn. Nhiều người đến trước di ảnh tưởng
niệm ông với những giọt nước thương tiếc. Nếu ngày xa xưa ấy không được ông cứu
giúp thì không thể có cuộc sống như ngày nay trên nước Đức. Trên thềm của Cung
thánh nhiều tràn hoa đẹp, hai tràn hoa với biểu tượng cờ vàng ba sọc đỏ của
VNCH là những người Việt Nam yêu tự do và dân chủ phải rời bỏ Quê hương vì lý
do chính trị.
Các cơ quan truyền
thông Đức tường thuật khen ngợi về tình nghiã sau đậm của Thuyền nhân VN đối với
Dr. Neudeck, trong nhà thờ đầy người. Đoàn chúng tôi tới
sớm có chỗ ngồi, phái đoàn Hamburg xe bus tới trể nhiều người phải đứng ngoài
sân…Thánh lễ tưởng niệm cữ hành trang trọng, hơn một ngàn người Đức-Việt cùng
hiệp thông cầu nguyện cho linh hồn Dr. Rupert Neudeck sớm vào nước Chúa nghỉ
ngơi. Chia buồn với gia đình bà Neudeck ông cựu chủ tịch Quốc hội, Cha xứ nhà
thờ, đại diện người Việt là bác sĩ Nguyễn Đình Quang 38 tuổi là một thuyền nhân
được con tàu CAP ANAMUR vớt năm 1981 từng mổ tim cho ông Neudeck. Dr. Quang nói
„Trong
trái tim chúng tôi vẫn sẽ mãi giữ hình ảnh Rupert Neudeck, suốt cuộc đời này sẽ
không quên ông, vì chúng tôi mang ơn ông, vì tình yêu thương của chính ông và
gia đình ông dành cho chúng tôi quá to lớn!...“
Trong những năm
cuối sức khoẻ yếu kém ông Neudeck đi ít hơn trước, dù có quá nhiều dự án chưa
được thực hiện. Cuối đời của ông
vấn đề tỵ nạn vẫn là mối quan tâm lớn nhất trong trái tim của ông. Gia đình ông
Neudeck không nhận tiền phúng điếu, nhưng dự án nhân đạo của ông còn tiếp tục nếu
quý đồng hương có tấm lòng hãy tiếp tục hỗ trợ cho. Gruenhelme e.V
Chính quyền
Troidorf sẽ có một địa điểm trong thành phố hay con đường mang tên Dr. Rupert
Neudeck. Cộng Đồng Người Việt sẽ xin phép dựng tấm bia tưởng niệm để phần đầu bằng
đồng đen của nhà điêu khắc đã làm từ nhiều năm trước. Chi phí đó nhờ quý đồng hương
góp tay. Ban tổ chức sẽ thông báo số Konto để việc kiểm soát minh bạch tiền thu
có chi phí.
Dr. Rupert Neudeck đã nhận nhiều giải thưởng cao quý
1978 –
Cavaliere-Orden der Republik Somalia
1985 –
Theodor-Heuss-Medaille
1991 –
Bruno-Kreisky-Preis für Verdienste um die Menschenrechte- Giải Nhân quyền
Bruno-Kreisky
1998 –
Erich-Kästner-Preis des Presseclubs Dresden e.V.
1999 –
Frankfurter Walter-Dirks-Preis
2003 – Marion
Dönhoff Preis
2005 – Ehrendoktorwürde
der Westfälischen Wilhelms-Universität Münster
2006 –
Europäischer Sozialpreis
2007 – Steiger
Award in Bochum
2007 –
Verdienstorden des Landes Nordrhein-Westfalen
2011 –
Ehrendoktorwürde der Universität Prizren
2012 – Ritter
der Ehrenlegion
2014
Deutschlands Bürger des Jahres vom Bundesverband Deutscher Zeitungsverleger
2014 –
Internationaler Menschenrechtspreis, Dr. Rainer Hildebrandt-Medaille
2015 –
Bürgerpreis der deutschen Zeitungen
2016 –
Erich-Fromm-Preis an das Ehepaar Neudeck
2016 – „Den
Bornheimer“ der Europaschule Bornheim
Rupert Neudeck
được bầu chọn vào danh sách Unsere Besten.
Mời
độc giả nghe tường thuật Thánh Lễ Cầu Nguyện
Nguyễn Quý Đại
KÖLN/ Cologne:
Câu nói từ thời
La Mã cổ đại: “Chưa ghé Köln, có nghĩa là chưa đến nước Đức" là thành phố
lớn thứ 4 và là một trong những thành phố cổ nhất của nước Đức.
Được xem là một
trong những thành phố cổ kính nhất của châu Âu, Köln/Cologne giống như cuốn sách ba chiều về lịch
sử và kiến trúc, mà nổi bật nhất là các kiến trúc nhà thờ được xây dựng từ thời
trung cổ.
Nhà thờ lớn
Kölner Dom được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1996. Kiến trúc
Dom tổng hợp giữa hội họa và điêu khắc được xây dựng vào tháng 8/1248 và việc
thi công dở dang suốt thời Trung cổ, đến năm 1880 mới hoàn thành. Nhà thờ lớn
này là một trong những nhà thờ lớn nhất trên thế giới, được xây dựng theo kiến
trúc Gotich thuần túy rộng 45m, dài 144,5m với hai tháp đôi khổng lồ cao 157m.
Bên trong nhà thờ, chậm bước dọc lối đi chính và ngắm những mái vòm Gothic cao
nhất thế giới cùng bốn bức tường được trang trí bằng các bức bích họa mô tả cảnh
trong Kinh thánh, các cửa sổ đều được lắp kính đổi màu lộng lẫy, nhiều chi tiết
trang trí, vật dụng được dát vàng.
Nhà thờ Kölner
Dom còn lưu giữ nhiều tác phẩm nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 12. Trong số các bảo
vật được trưng bày trong 6 gian phòng trên tầng 3 của nhà thờ, nổi tiếng nhất
là cỗ quan tài bằng đá mạ vàng chạm trổ rất đẹp. Tương truyền trong quan tài có
thánh cốt của 3 nhà thông thái (ba Vua) trong sách Phúc Âm. Năm 1864, khi mở nắp
quan tài, người ta đã tìm thấy các bộ xương và quần áo có niên đại 2.000 năm. Gần
bên cỗ quan tài là cây thập tự lớn được chạm khắc trên gỗ sồi vẫn còn dấu sơn
và mạ vàng. Nhà thờ có 11 quả chuông, nổi bật nhất là chiếc chuông rung tự do lớn
nhất thế giới mang tên “Chuông của Thánh Peter”, nặng 24 tấn.
Thánh lễ cầu
nguyện cho Dr. Rupert Neudeck tại Thánh đường St Aposteln do Đức Hồng Y Rainer
Maria Woelki (Tổng Giám Mục tổng giáo phận
Köln) chủ lễ. Thánh đường St Aposteln cổ khởi đầu từ cuối thế kỷ thứ 9 về lịch
sử văn hóa là 12 nhà thờ trong nội thành theo phong cách Kiến trúc Roman (tiếng
Anh: Romanesque. Phần lớn các nhà thờ này đã hư hại nặng trong chiến tranh, mãi
đến năm 1985 việc tái kiến thiết mới hoàn thành.
Ngày 18 tháng 9
năm 1965 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh đường nầy lên bậc Tiểu Vương Cung
Thánh Đường.