Có đảng Cộng Sản mới có đổi mới. -- Đỗ Mười
Cho tới nay cách mạng xã hội chủ nghĩa của đảng Cộng Sản Việt Nam đã đi qua hai giai đoạn: Giai đoạn phá hủy xã hội tư sản để làm cách mạng vô sản và giai đoạn từ bỏ cách mạng vô sản trở lại xã hội tư sản. Trong giai đoạn đầu, dân Việt đã bị làm tình làm tội để được giải phóng thành người vô sản. Còn giai đoạn thứ nhì cho chúng ta thấy đảng Cộng Sản đã sử dụng cơ chế chính trị vô sản (độc tài toàn trị) để tư sản hóa đảng viên. Dưới đây chúng tôi xin ghi lại những sự việc đảng viên Cộng Sản đã và đang tung hoành để biến giai cấp đảng thành giai cấp tư sản đỏ.
Những đường vòng oan nghiệt
Trong những năm 1978, 79, trước sự thất bại của chương trình kinh tế xã hội chủ nghĩa, với kinh tế tập sản và quốc doanh, hai ông Võ Văn Kiệt và Nguyễn Văn Linh ở miền Nam đã liều đột phá hàng rào kinh tế giáo điều Mac-xit – Lênin-nit bằng cách lùi ở cả nông, công, thương nghiệp:
- Lùi ở nông nghiệp là cho nông dân thuê đất khoán, làm ăn cá thể.
- Lùi ở công thương nghiệp là bãi bỏ việc ngăn sông cấm chợ, khuyến khích phát triển kinh doanh theo phương thức 3 lợi ích là lợi ích nhà nước, lợi ích cơ sở và lợi ích cá nhân. Cho tư nhân lập cơ sở sản xuất và được phép bán giá tự do những sản phẩm trên mức chỉ tiêu kế hoạch. Người Tàu được phép kinh doanh trở lại và trong các xí nghiệp dùng hình thức khoán sản phẩm để kích thích năng xuất công nhân.
Trong việc phá rào, Võ Văn Kiệt đã dùng Ba Hòa, một cán bộ Hoa vận, người Triều Châu, thành lập công ty Cholimex, hoạt động theo kiểu tư bản. Và Ba Hòa đã liên lạc với một số thương gia Tàu còn lại và những người trung gian như Triệu Vĩnh Thiệt có họ hàng điều khiển những cơ sở kinh tế ở Hongkong, Singapore để khai thông việc xuất nhập cảng. Từ đó, Cholimex đã nhập cảng nguyên liệu, hóa chất, phụ tùng thay thế, máy móc và xuất cảng nhiều hàng nông sản và hải sản như yến, vi cá, mực khô, tôm cá, hột vịt, hạt sen và gạo ngon. Triệu Vĩnh Thiệt đã tái lập công ty Tân Tiến sản xuất đồ nhựa bằng plastic nhập cảng. Charles Đức, một tiến sĩ có quốc tịch Pháp, cũng đã được Võ Văn Kiệt trọng dụng để giao dịch buôn bán với Pháp trong chức vụ Giám Đốc công ty xuất nhập khẩu nông sản, và Phó Giám Đốc công ty Imex. Một cựu thị trưởng xuất thân Viện Quốc Gia Hành Chính của Việt Nam Cộng Hòa đã nằm trong Công Ty Lương Thực Thành Phố của bà Ba Thi, dùng khả năng tính toán quản lý thương mại giúp bà Thi đạt nhiều cờ tiên tiến và huân chương anh hùng lao động. Một điều cần nói thêm là từ chính sách đột phá của hai ông Kiệt và Linh, người Tàu Chợ Lớn đã đi đầu trong việc sản xuất và họ lại làm giàu từ giai đoạn này.
Như thế là có sự mâu thuẫn về chính sách kinh tế giữa trung ương và địa phương? Chúng ta biết là khoảng năm 1966-67, để cứu dân khỏi đói, ông Kim Ngọc, bí thư tỉnh Vĩnh Phú, đã phá rào chính sách hợp tác xã bằng cách cho dân thuê đất khoán sản phẩm (ông Kim Ngọc đã đi trước Đặng Tiểu Bình hàng chục năm về chính sách khoán). Chính sách khoán có kết quả, nhưng trái với chính sách tập sản, tập thể, nên ông Kim Ngọc bị thanh trừng. Còn hai ông Kiệt và Linh đã đi ra ngoài rào xa hơn ông Kim Ngọc cả nông, công, thương nghiệp mà sao lại có thể được yên? Theo những câu chuyện trên bàn nhậu của cán bộ ở Sài Gòn vào thời gian đó thì có xung đột. Trung ương không chấp nhận kiểu làm ăn tự phát của Sài Gòn và những người chống triệt để là Trường Chinh và Đỗ Mười, người mà mấy ông cán bộ thường nói là một tên nghiện giáo điều và chỉ biết húc. Nhưng tình hình kinh tế xuống dốc, quá bết bát và có lẽ hai ông Linh và Kiệt được các tỉnh B2 ủng hộ nên thoát chuyện thanh trừng.
Trước tình hình đó, Đại Hội 5 được triệu tập (3/1982), và trong đại hội thành phần lãnh đạo bảo thủ đạt được ưu thế. Võ Văn Kiệt được triệu ra Bắc là Phó thủ tướng đặc trách Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước, còn Nguyễn Văn Linh thay Võ Văn Kiệt, vẫn duy trì cách làm ăn của ông Kiệt và trở thành một bộ mặt có giá của phe cải cách được toàn thể các tỉnh B2 ủng hộ, mặc dù ở Đại Hội 5, Nguyễn Văn Linh bị loại khỏi Bộ Chính Trị.
Đại Hội 5 thay đổi kế hoạch kinh tế:
- Bỏ chính sách ưu tiên công nghiệp nặng của đại hội 4.
- Nông nghiệp trở thành mặt trận hàng đầu.
- Trở lại chính sách xã hội hóa triệt để với những biện pháp xiết chặt cả nông, cộng, thương nghiệp.
Đường lối xã hội hóa và xiết chặt các ngành kinh tế của đại hội 5 lại đưa xã hội vào những khủng hoảng mới và nghị quyết 8 về thay đổi giá, lương, tiền với cuộc đổi tiền lần thứ 3 (1 đồng mới ăn 10 đồng cũ) đã đưa nền kinh tế tới phá sản. Lạm phát lên tới trên 700% và giá cả đại loạn không thể kiểm soát được.
Trước tình thế đó, đảng Cộng Sản và nhà nước đã nhận sai lầm trong chính sách kinh tế và đã tổ chức chiến dịch học tập, phê bình trên toàn quốc. Trong chiến dịch học tập, Nguyễn Văn Linh đã có một bài phân tích về sự sai lầm trong đường lối lãnh đạo kinh tế. Trong đó, ông Linh nói rằng Trung Ương đã sai lầm trong cải cách ruộng đất vì làm theo kiểu Trung Quốc, rồi phạm nhiều sai lầm khác trong công, thương nghiệp, vì đã đi theo con đường làm ăn cũ, ý nói làm ăn theo chính sách giáo điều xã hội chủ nghĩa. Và ông Linh đã kết luận với câu: “Nền kinh tế này không còn phải ở bên bờ vực thẳm mà thật sự đã ở dưới vực thẳm. Chúng ta phải tìm cách nhảy lên, không sẽ chết”. Phê bình như thế thì ông Linh đã xổ toẹt tất cả chương trình kinh tế của đảng. Nếu như trước kia mà nói thế thì khó sống, nhưng năm 1986 lại trở thành sáng suốt, vì cả trung ương đã nhận chương trình của Đại Hội 5 sai lầm.
Trong cuốn “Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam” của mấy ông giáo sư Kiều Xuân Bá, Lê Mậu Hãn và Trần Duy Khang đã viết: “Nhìn chung thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ mà đặc trưng là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa (tư bản, cá thể) bị xóa bỏ sớm ở mức cao. Những nhược điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến cuộc khủnghoảng kinh tế xã hội gay gắt”
(Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2002, trg 158)
Chính vì sự thất bại của mô hình kinh tế tập sản, mô hình vô sản hóa toàn xã hội mà đảng Cộng Sản phải nói đến đổi mới tư duy kinh tế, và họ đã đem tư duy đổi mới này vào Đại Hội 6 (12/86), và Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí Thư để thực hiện chính sách đổi mới.
Nội dung căn bản của chính sách đổi mới là cởi trói các ngành kinh tế với những điểm:
Về nông nghiệp:
- Ban hành nghị quyết 10, gọi là khoán 10, thay cho chỉ thị khoán 100. Khoán 10 thiết lập chính sách khoán trắng, cho phép xã viên thuê đất canh tác không hạn chế diện tích và chịu trách nhiện hoàn toàn về số ruộng đất khoán.
- Với khoán 10 cùng luật đất đai do Quốc Hội biểu quyết tháng 12/86, nhà nước Cộng Sản đã luật hóa chính sách khoán, hủy bỏ chính sách sản xuất tập thể xã hội chủ nghĩa, nới rộng thời gian cho nông dân thuê đất dài hạn là 15 năm, và cho phép người thuê có quyền để lại cho con kế thừa phần đất ruộng thuê hoặc nhượng lại cho một nông dân khác.
Về công thương nghiệp:
Đối nội:
- Cởi trói tư nhân, cho phép làm ăn cá thể.
- Huỷ bỏ ngăn sông cấm chợ để lưu thông hàng hóa.
Đối ngoại:
- Mở cửa giao thương với thế giới tư bản bằng bộ luật đầu tư được Quốc Hội biểu quyết tháng 12.1988. Với luật này, nhà nước kêu gọi tư bản nước ngoài vào đầu tư và dành cho xí nghiệp nước ngoài nhiều đặc quyền như cho phép làm chủ xí nghiệp 100% vốn đầu tư và không bị quốc hữu hóa.
- Sau đó luật đầu tư được nâng cấp dần để thu hút tư bản nước ngoài và đảng Cộng Sản độc chiếm quyền làm ăn với tư bản nước ngoài, thiết lập một hệ thống tư bản của thành phần cán bộ cao cấp để thành giai cấp tư bản đỏ, rồi tiến tới việc cho phép đảng viên phát triển kinh doanh tư nhân. Chính sách này được đảng Cộng Sản gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng không nói nội dung của việc định hướng XHCN là gì, nhưng theo cách làm của nhà nước xã hội chủ nghĩa thì ta có thể hiểu nội dung của cái đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa là đảng duy trì độc đảng toàn trị. Đảng làm chủ ruộng đất và duy trì hệ thống xí nghiệp quốc doanh. Như thế có thể gọi đó là nền kinh tế cởi trói trong vòng tay của đảng.
Qua những điều trình bày trên, có thể nhận định là từ cách mạng vô sản trở về tư sản, đảng Cộng Sản đã đi theo 4 đường vòng:
Thứ nhất là đường vòng nông nghiệp:
Trước cách mạng vô sản, người nông dân làm ăn cá thể. Trong cách mạng vô sản, cách mạng ruộng đất xã hội chủ nghĩa, đảng đưa nông dân vào hợp tác xã làm ăn tập thể, làm thuê ăn điểm. Tới đổi mới, trở về tư sản, đảng bỏ làm ăn tập thể, cho phép nông dân trở về làm ăn cá thể với mảnh đất thuê dài hạn của nhà nước.
Thứ nhì là đường vòng công thương nghiệp:
Trước cách mạng vô sản, người dân lập xí nghiệp, làm ăn tự do. Tới cách mạng vô sản, đảng hủy diệt giai cấp tư sản, cấm tư thương và đảng trở thành chủ nhân công, thương nghiệp. Tới đổi mới, đảng trở về tự do kinh doanh.
Thứ ba là đường vòng tư sản:
Trước cách mạng vô sản, quyền tư hữu được tôn trọng. Tới cách mạng vô sản, đảng hủy diệt quyền tư hữu, xây dựng xã hội với con người mới vô sản (con người mới xã hội chủ nghĩa). Tới đổi mới, đảng trở về tư sản, xây dựng xã hội tư sản với giai cấp tư sản đỏ.
Thứ tư là đường vòng lệ thuộc:
Đảng Cộng Sản khởi nghiệp nhân danh giải phóng dân tộc khi Việt Nam bị Pháp đô hộ. Dưới sự yểm trợ của Liên Sô và Trung Cộng, đảng Cộng Sản thắng Pháp, chiếm miền Bắc năm 1954, rồi thắng Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ năm 1975. Sau đổi mới, đảng cộng Sản Việt Nam dựa vào Trung Quốc và đưa đất nước vào vòng lệ thuộc Trung Quốc.
Với đảng Cộng Sản thì 4 đường vòng trên là sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới của đảng, nhưng với dân và nước thì đó là những đường vòng oan nghiệt. Gọi là oan nghiệt vì trên những con đường này, đảng Cộng Sản đã dùng xác dân để thử nghiệm chính sách vô sản, hủy diệt vốn liếng trí não dân tộc, tàn phá cơ cấu xã hội tư hữu để xây dựng xã hội vô sản. Nhưng cuối cùng đảng Cộng Sản lại phải xóa bỏ xã hội vô sản để làm lại xã hội tư hữu với giai cấp mới là giai cấp tư sản đỏ. Còn đường vòng thứ tư thì 4 triệu dân Việt đã chết cho danh nghĩa cách mạng giải phóng khỏi ách thực dân đế quốc, danh nghĩa cứu nước của đảng Cộng Sản, để cuối cùng đảng Cộng Sản lại trở thành đảng bán nước khi mở đường cho Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam.
Nghĩa trang liệt sĩ trên khắp nước
Để đi tới những đường vòng oan nghiệt, đảng Cộng Sản đã phải phát động 2 cuộc chiến tranh, thứ nhất là chiến tranh kháng Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam (1946-1954). 9 năm kháng chiến, số tổn thất không nhỏ. Nhưng chắc chỉ miền Bắc có thể xây dựng nghĩa trang, còn miền Nam thì không, vì miền Nam sau 1954 thuộc chính quyền quốc gia - Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế ở đây chỉ nói đến cuộc chiến thứ nhì từ 1960 đến 1975, khi miền Bắc thành lập mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng và đưa quân vào xâm lăng miền Nam và Việt Nam Cộng Hòa phải tự vệ với sự trợ giúp của Hoa Kỳ.
Tổn thất của cả hai bên trong 15 năm không thể có số thống kê chính xác, nhưng con số ước lượng là khoảng 4 triệu. Vì thế, những năm sau 1975, nghĩa trang liệt sĩ đã mọc lên như nấm trên khắp nước. Hầu như tỉnh, thành phố nào cũng có vài nghĩa trang liệt sĩ. Có nhiều tỉnh nghĩa trang liệt sĩ đã phải xây dựng tới cấp xã. Vào google, chúng tôi biết tỉnh Quảng Trị là miền đất có nhiều nghĩa trang nhất, và là những nghĩa trang lớn nhất nước. Trong một lần trò chuyện về việc những nhà ngoại cảm đi tìm xác liệt sĩ bị vùi lấp ở một nơi nào đó, một anh bạn người Quảng Trị cho biết là dưới đáy sông Thạch Hãn là một lớp xương và sọ của bộ đội chết trong trận đánh và giữ Thành Cổ trong 81 ngày đêm và sông Thạch Hãn đã trở thành một nghĩa trang không mồ. Do đó ngày 13/4/2012, Quảng Trị đã tổ chức nghi lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ trong trận chiến ở Thành Cổ năm 1972 và thả 8100 hoa đăng trên dòng Thạch Hãn, những bông hoa tượng trưng cho 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ.
Mới đây chúng tôi đọc được bài bút ký Cổ Thành Quảng Trị của Đặng Văn Sinh, thấy rợn người khi tác giả kể tên những nghĩa trang vùng hỏa tuyến với cái chết trong trận chiến Cổ Thành, nên xin ghi lại một đoạn:
“ Chúng tôi ghé thăm hầu hết các địa danh được coi là “đất thiêng” ở thời kỳ trước năm 1975, từng là chiến trường đẫm máu của những xung đột ý thức hệ. Hành trình xuyên Việt lần này, cảnh trí và những hồi ức đã làm cho một số văn nghệ sĩ nhìn nnhận cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc ít khắt khe và trái tim độ lượng hơn. Từ thị xã Đông Hà chúng tôi lần lượt viếng thăm chiến địa cũ Khe Sanh, sân bay Tà Cơn, cửa khẩu Lao Bảo, nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9, nghĩa trang Gio Linh, nghĩa trang Cam Lộ... mấy chục vạn linh hồn có tên và không tên đã ngã xuống trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn, giờ này đang phiêu lãng nơi đâu ở một vùng hoang địa đầy tử khí? Chỉ riêng Đường 9 đã có gần mười vạn ngôi mộ. Đám người nhỏ nhoi trước một bãi tha ma khổng lồ bất giác làm tôi thấy cô đơn. Rừng Trường Sơn hoang sơ, gió ngàn vi vu tạo nên một không gian rờn rợn lúc chiều tà. Hỡi những linh hồn trận vong! Các anh các chị hãy yên giấc ngàn thu.
Tất cả chỉ còn là ký ức, một ký ức đau buồn hằn vào lịch sử kéo theo nỗi trầm luân của cả một dân tộc khi chưa thuộc lời dạy của cha ông về lòng tha thứ. Nơi dừng chân lâu nhất là Thành Cổ. Tại đây người ta xây một đài tưởng niệm những chiến sĩ trận vong (tất nhiên chỉ là chiến sĩ QĐNDVN). Thắp hương xong, đoàn sang viếng thăm nhà lưu niệm. Đây là ngôi nhà hai tầng, giống như một bảo tàng quân sự thu nhỏ, trưng bày những chiến tích, chiến cụ cùng sa bàn trận địa của cuộc chiến khốc liệt 81 ngày đêm giữa hai bên Giải Phóng và Quốc Gia năm 1972. Nhìn toàn cảnh chiến trường xưa, lòng tôi chợt nhói lên kinh hoàng về một thời đẫm máu và nước mắt. Cánh cổng phụ phía tây thành còn lại như một chứng tích khủng khiếp bởi hàng trăm vết đạn xuyên qua như mắt sàng mặc dù nó được làm bằng thép 7 ly.
Trên trời mây trắng vẫn lững thững bay ra biển. Cỏ non Thành Cổ vẫn tươi xanh như lời ca của một bài hát mới sáng tác gần đây, bất giác tôi nhớ đến mấy câu thơ bộc lộ cảm xúc rất chân thành của một tác giả nào đó tôi không nhớ tên, nhưng thật tiếc là nó vẫn chỉ là sản phẩm cuối cùng trong chuỗi những kỹ thuật thượng thặng của công nghệ tuyên truyền:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.
Nhớ lại lúc ở nhà lưu niệm trong khuôn viên Thành Cổ, một nhà thơ trong đoàn hỏi người lính thuyết minh rằng, quân số thương vong của chúng ta là bao nhiêu khi công bố 26 ngàn lính Việt Nam Cộng Hòa tử trận.
Anh bộ đội trẻ lặng đi một lúc rồi từ tốn nói:
- Thưa các bác, số thương vong của quân ta Bộ Quốc Phòng chưa thống kê được!
Nghe xong, nhà thơ Nguyễn Ngọc San, một trong những cựu chiến binh Trường Sơn ghé tai tôi nói nhỏ:
- Mỗi ngày đêm ít nhất “nướng” một đại đội, cứ tính sơ sơ mỗi đại đội một trăm người, nhân với 81 ngày thì sẽ ra, việc gì phải hỏi. Mà đó mới chỉ là số hy sinh trong thành, còn những đơn vị “bị” ở bên kia sông Thạch Hãn cũng không ít đâu.
Ông nói đúng. Khỏi phải bình luận gì thêm đễ đỡ làm đau thêm các linh hồn trẻ đang yên nghỉ dưới thảm cỏ non Cổ Thành.
Ngay đêm hôm ấy, trong nhà nghỉ thị xã Đông Hà, cách Thành Cổ không xa, Nguyễn Ngọc San đọc cho tôi nghe bài “Cổ Thành Quảng Trị” mới sáng tác:
Cổ Thành chẳng thấy thành đâu
Một vuông đất hẹp vùi sâu vạn người.
Bát hương cháy đỏ giữa trời
Khôn thiêng một nén cho nguôi ngoai lòng.
Cổ Thành máu chảy thành sông
Xương gom thành núi thành không còn thành.
Bên ni, ừ cả bên tê
Thành hoang, gạch vụn gửi về mai sau.
Bài thơ chỉ có 8 câu, nhưng nghe xong tôi chợt bàng hoàng bởi sức nặng của những vần lục bát. Nó chẳng những tuyệt vời về mặt cấu tứ mà còn bộc lộ một cái nhìn mới, một cách cảm nhận mới về chiến tranh sau khi có độ lùi 34 năm... Về một mặt nào đó, ta còn có thể xem bài thơ là lời sám hối muộn mằn, nhưng cần thiết cho những thế hệ sinh ra sau, khi đất nước đã im tiếng súng để chọn con đường đến tương lai mà không cần nổ súng vào nhau.”
Bài ký Cổ Thành Quảng Trị nói lên được nỗi lòng của những người sau cuộc chiến, nhưng khi đọc đến mấy lời của ông Sinh coi bài thơ là lời sám hối thì chúng tôi khựng lại tự hỏi Ai Sám Hối? Nhà thơ Nguyễn Ngọc San không gây ra cuộc chiến mà chỉ là một người trong lớp lớp thanh niên theo lệnh của đảng Cộng Sản xẻ dọc Trường Sơn đi giải phóng miền Nam với kết quả là sau cuộc chiến nghĩa trang liệt sĩ mọc lên như nấm sau cơn mưa, với dân oán nước nguy, thì lời sám hối nếu có phải là lời của đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhưng không, đảng Cộng Sản đã coi đó là những chiến thắng để cho đảng tung hô với pháo bông liên hoan và biểu ngữ đỏ đường để mừng ngày mà đảng đã dùng những nghĩa trang liệt sĩ trên khắp nước như những lớp đá lát đường để đảng Cộng Sản trở về tư sản, và những cán bộ đảng đã đưa gia đình con cái của họ qua Mỹ, Canada và Úc...để tránh cái xã hội mà đảng đã xây dựng với mấy chữ cộng sản và xã hội chủ nghĩa.
Sự vinh quang của đảng Cộng Sản trên đường về tư sản đã hiện rõ ở mấy điểm sau:
1. Biến nhân dân thành nguồn để ăn cướp
Chính sách cởi trói, công nhận quyền làm ăn cá thể với quyền sử dụng đất đai dài hạn và chuyển nhượng đất đã thúc đẩy canh tác, nên chỉ sau một năm Việt Nam đã có thể xuất cảng gạo. Nhưng việc cởi trói đã gây nên một trận chiến mới ở nông thôn và cả thành thị. Đó là trận chiến cướp đất và giữ đất. Vẫn là đấu tranh giai cấp, nhưng bây giờ là đấu tranh giữa nông dân và đảng viên cộng sản. Trận chiến ngày càng khốc liệt, đã và đang diễn ra dưới nhiều hình thức. Trong đó có hai hình thức phổ biến nhất:
Thứ nhất, đảng viên thành địa chủ:
Sau cải cách ruộng đất ở miền Bắc, rồi miền Nam sau 1975, chế độ Cộng Sản đã hủy diệt giai cấp địa chủ, phú nông, trung nông và tiểu nông để chỉ còn lại một giai cấp nông dân vô sản. Nhưng với chính sách cởi trói nông nghiệp (nghị quyết 10), chế độ lại tái tạo một giai cấp địa chủ mà lâu nay dân đã gọi là đám cường hào ác bá mới với 3 tầng bóc lột:
- Dùng quyền để ấn định những thứ thuế phi pháp trong vùng họ cai trị và chiếm nhiều đất để trở thành địa chủ.
- Nông dân có ít đất đã phải đi làm thuê cho địa chủ mới và do không có luật pháp bảo vệ, nông dân làm thuê đã bị bóc lột tàn tệ.
- Tầng lớp địa chủ mới đã cho nông dân thuê nông cụ và cho vay với lãi cao gấp 3 lần lãi thường. Từ đó nông dân nghèo đã tùy thuộc vào tầng lớp cường hào ác bá mới với nợ chồng chất, mà nhà thơ cộng sản Nguyễn Duy trong bài thơ “Nhìn Từ Xa...Tổ Quốc” đã đúc kết thành mấy câu:
Lãnh chúa sứ quân san sát vùng cát cứ
Lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa – như có – như không.
Thứ nhì, đảng viên cướp đất bán cho tư bản ngoại quốc
Từ thập niên 1990 đến nay, theo đà phát triển kinh tế thị trường XHCN, đất là nơi dễ làm giàu nhất, nên đất của nông dân (nhà cửa, ruộng vườn) đã bị thu hồi dưới nhiều cái tên như giải phóng mặt bằng, phục vụ qui hoạch các khu công nghiệp, các dự án đầu tư quốc tế... để đảng viên làm ăn với tư bản. Việc thu hồi đất này có bồi thường, nhưng là thứ bồi thường ăn cướp theo chế độ chuyên chính vô sản mà nhà văn Nguyên Ngọc trong bài Đất và Nông Dân đã nói: “Cái thứ đất quen thân, thống thiết, máu thịt với họ thế, mà bỗng nhiên trở nên rất đỗi kỳ lạ, ở trong tay họ, khi họ bị tước đi thì giá chỉ có mấy đồng, nhưng chỉ cần chuyển sang tay doanh nghiệp nào đó, một ông nước ngoài xa lạ, sang trọng nào đó thì bỗng có giá nhiều “tỷ” (tiasang.com/2/7/08).
Còn luật sư Trần Lâm trong bài Luật Đất và Tam Nông cho biết: “Đất thu hồi đền bù 23 triệu một sào (360 m2), thế rồi đo, vẽ, lên dự án, rồi bán, rồi mua: 15,20 triệu/m2, thế là công an và dân xô xát. Tự điển thêm một từ mới “Dân Oan”, công an thêm một nhiệm vụ mới “Bảo vệ nhà đầu tư”. (doithoai.com/9/15/08).
Từ đó dân oan đi khiếu kiện đã trở thành một phần lịch sử của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ vô sản trở về tư sản. Phần lịch sử này là thảm kịch của nông dân, vì hàng ngày, hàng tháng... lớp lớp dân oan lũ lượt kéo đến trụ sở tiếp dân tỉnh, thành phố, quốc hội, dinh chủ tịch, dinh thủ tướng, tổng thanh tra... trương biểu ngữ tố cáo đích danh những ông quan địa phương: Bí thư, chủ tịch tỉnh, huyện xã cướp đất, cướp nhà và xin các quan trên đèn trời soi xét, cứu giúp. Nhưng quan trên không xét và khi nào dân oan tới nhiều quá làm phiền lãnh đạo thì quan ra lệnh cho công an nhân dân đàn áp, hốt quẳng lên xe chở đi, rồi liệng xuống ở một nơi nào đó như những con vật. Trước mắt những ông quan tư sản đỏ thì đây là đám người gây rối, mất trật tự, làm xấu bộ mặt thành phố, nhưng không thể bỏ tù và bắn bỏ, vì quá nhiều (hàng triệu) mà trong đó đa số là gia đình đã đi theo đảng Cộng Sản, đi theo Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng, nên đã dùng sách thời gian và trời đất để trừng trị dân oan. Họ tin rằng sự kiệt sức, cạn tiền và bệnh tật của dân oan sẽ giúp họ đưa những lớp sóng khiếu kiện ra biển Đông.
2. Biến nước thành nơi để rút ruột, tàn phá và ăn cắp
Xin ghi lại mấy thí dụ điển hình về chuyện rút ruột những công trình xây dựng:
- Trên mạng Nghệ An (10/717) ông Hoàng Phạm cho biết: Tuyến đường N5, con đường chiến lược kinh tế của tỉnh Nghệ An vừa mới đưa vào sử dụng được 3 tháng, con đường vốn ngân sách hàng nghìn tỷ đã hư hỏng, được chắp vá như “tổ đỉa”.
- Ông Thành Nam trong bài Điểm Mặt Các Công Trình Giao Thông Đình Đám Vừa Thông Đã Hỏng, đã ghi lại:
- Đường Ô Chợ Dừa – Hoàng Cầu (Hà Nội) dù chỉ dài 500m, nhưng được đầu tư tới 900 tỷ đồng, nên được mệnh danh là “đường đắt nhất hành tinh”, nhưng con đường này lại trở thành “đường hỏng nhanh nhất hành tinh”, vì chỉ mới thông xe vài ngày thì vỉa hè đã hư hỏng, phải đào lên lát lại.
- Cầu đường 5 kéo dài nằm trên quốc lộ 5 kéo dài, tổng mức đầu tư hơn 6000 tỷ đồng. Tuy nhiên chỉ 2 tháng sau khi khánh thành, tuyến đường đã bị vỡ khe co giãn, trơ lõi thép tại cầu Ngũ Huyện Khê (Đông Anh, Hà Nội).
- Cao tốc Nội Bài dài 245 km, chạy qua 5 tỉnh thành, là dự án trọng điểm với kinh phí đầu tư hơn 30.000 tỷ đồng. Nhưng chỉ sau 1 tháng thông xe (21/9/14), đoạn km 83 đã xuất hiện vết nứt kéo dài, nguy cơ sụt lún, phải cắm biển báo Nguy. (infonet.18/12/14).
Xin ghi lại mấy chuyện điển hình về việc Phá rừng và đào khoáng sản:
Ông Tô Văn Trường, trong bài Tận Diệt Tài Nguyên, đã viết:
“Điều đáng nói là ở Việt Nam, tình trạng “ăn dày” tài nguyên và bất chấp hậu quả đang là xu thế đáng báo động. Các địa phương được phân quyền, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ của Trung Ương theo quy hoạch nên chỉ nhằm vào những cái có sẵn nhiều hơn là tạo ra cái mới. Vì vậy, các tỉnh, thành đua nhau khai thác khoáng sản đem bán (chứ không phải để chế biến nâng cao giá trị), từ các mỏ kim loại nhỏ, đá granite, đá hoa, đá vôi ở phía Bắc đến quặng Titan ở ven biển miền Trung... Cũng chính “tư tưởng nhiệm kỳ” và “nền kinh tế tỉnh” đã khiến các địa phương lao vào tận diệt tài nguyên thiên nhiên như thế. Cái gì đẽo được là đẽo ngay, giống như chuyện cấp tập chặt cây xanh ở Hà Nội, dự án lấn sông Đồng Nai, lấp vịnh Nha Trang, loạn thủy điện, cho thuê dài hạn rừng phòng hộ ở biên giới, khai thác khoáng sản tại nhiều tỉnh thành” (người Lao Động 12/4/15).
Để nhìn cụ thể hơn, xin dẫn lời ông Liên Sơn, trong bài Dồi Dào Tài Nguyên, Khoáng Sản, Nhưng Dân Trắng Tay: Tây Nguyên, nơi mà rừng được khai tác cạn kiệt để phục vụ làm giàu ngắn hạn cho các đại gia người Việt như Đoàn Nguyên Đức. Theo số liệu thống kê của Cục Lâm Nghiệp (Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn), công bố năm 2013, trong 5 năm (2007-13), 5 tỉnh Tây Nguyên gồm Gia Lai, Kon tum, Dăk Lăk, Dăk Nông, Lâm Đồng đã mất đi hơn 129.000 Ha rừng, trong đó rừng tự nhiên mất hơn 107.400 Ha, rừng trồng mất trên 22.200 Ha. Trung bình mỗi năm khu này bị mất hơn 25.700 Ha rừng. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp lợi dụng trồng cao su, dự án thủy điện để phá rừng. Tây Nguyên trở thành bằng chứng điển hình về lối tư duy ăn xổi và sự bắt tay giữa các quan chức với cá nhân nhằm trục lợi bất chính dưới chiêu bài “Vì sự phát triển kinh tế” ở Việt Nam. (Việt Nam Thời Báo 13/10/2014).
Trong bài Nhà Gỗ và Xác Dân, ông Trương Châu Hữu Danh cho thấy một tình trạng thê thảm hơn: “Chỉ trong vòng 40 năm, những cánh rừng bạt ngàn của Việt Nam gần như bị xóa sổ. Bao nhiêu năm chiến tranh, hứng chịu bom đạn, rừng vẫn bạt ngàn xanh “che bộ đội, vây quân thù”. Sau chiến tranh thì rừng mất sạch. Rừng đi đâu? Vào nhà các đại gia. Nhưng đại gia mê gỗ còn thua xa cán bộ. Trong một tháng chúng tôi đã đi khắp các cánh rừng Tây Nguyên, từ Dăk Nông đến Dăk Lăk, Gia Lai, rồi Kon Tum, Lâm Đồng, đâu đâu cũng thấy rừng bị tàn sát. Sau lệnh đóng cửa rừng tự nhiên của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nạn phá rừng vẫn tràn lan. Gỗ ở K’Bang (Gia Lai) vẫn ào ạt chạy ra khỏi rừng, dù từ rừng ra ngoài chỉ có con đường độc đạo, có barie chắn ngang của lực lượng kiểm lâm. Gỗ ở Ngọc Hồi, Sa Thầy (Kon Tum) cũng ồ ạt chạy ra khỏi rừng cả đêm lẫn ngày – dù muốn qua chốt chặn phải “bay lên trời” mới thoát.
Ông Hữu Danh cho biết một sự thật là chính những ông lãnh đạo huyện, miền rừng núi đã là những lâm tặc cỡ lớn. Vì thế trên khắp giải đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng những ngôi nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân, mà trớ trêu thay lại là nhà của cán bộ. Một thực tế là nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều. Những ngôi nhà xa hoa này được đánh đổi bằng mạng dân. Các vị ngủ có ngon không khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ?”(boxitvn. 2017/17/10)
Ông Bùi Quang Vinh, Bộ Trưởng Kế Hoạch, Đầu Tư, tại một buổi thảo luận nội bộ của Đoàn Đại Biểu Quốc Hội cho biết: Nguồn thu chính của Việt Nam những năm vừa qua là khai thác tài nguyên đem bán. Năm năm nữa, dầu hết sẽ không còn gì để thu. Khoáng sản thô cũng đã bị đào bới mang bán hết rồi. Dầu khí từ 18 triệu tấn xuống dần 17, 15, 14 rồi 1 triệu và cuối cùng là đóng cửa. Và chúng ta tụt hậu. Ông Vinh cảnh báo: Nếu không đổi mới chúng ta sẽ chết. Chúng ta sẽ chỉ còn từ củ mài trở xuống để ăn thôi. (nguoi viet.com/2411/2013).
Ông Vinh đã tuyệt vọng báo động về sự lụn bại của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng đó là lụn bại với dân, với nước, còn chính nền kinh tế ấy lại là môi trường thuận lợi cho lãnh đạo làm giàu. Ông nói chuyện hết dầu, nhưng đến tháng 3/2017, Trịnh Xuân Thanh, nguyên Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí, trong một bức thư ngỏ đã cho biết: Việc ăn cắp dầu thô trên biển đã được thực hiện từ đời Võ Văn kiệt, Phan Văn Khải và Nguyễn Tấn Dũng, tính đến nay đã gần 30 năm, và lãnh đạo đảng Cộng Sản đã bán hàng trăm triệu tấn dầu ngoài biển. Với khách hàng là Nhật hay châu Âu thì có lẽ chuyện mua bán sòng phẳng, có hóa đơn chứng từ. Nhưng với khách hàng Trung Quốc thì khác. Chẳng hạn xuất bán 100.000 tấn thì họ trả 70.000 tấn qua ngân hàng có hóa đơn, còn 30.000 tấn được trả bằng tiền mặt trên tàu với giá chỉ bằng 50% giá thị trường. Từ đó, đời sống của lãnh đạo tập đoàn dầu khí vô cùng xa hoa lãng phí. Chỉ cần một cán bộ cấp trưởng phòng hay giàn trưởng... cũng có thể nói chuyện hàng chục triệu đô và chuyện mua nhà bên Mỹ hay châu Âu đối với họ là chuyện “cái móng tay”. Từ ngày ông Nguyễn Tấn Dũng lên làm Thủ Tướng và Đinh La Thăng lên làm Chủ Tịch Tập Đoàn Dầu Khí thì khách hàng khoảng 70% là Trung Quốc. Trong thời gian này giá dầu thô lên rất cao, có lúc hơn 120 đô/thùng, tức khoảng 850 đô/tấn. Chỉ tính trong 10 năm ông Dũng làm thủ tướng, mỗi năm Việt Nam xuất bán 20 triệu tấn dầu thô, với lượng ăn cắp khoảng 6 triệu tấn/năm. Mỗi tấn tính rẻ 600 đô, như vậy là băng ông Dũng và Đinh La Thăng đã ăn gọn 36 tỷ đô (10x6x600).
Những biểu hiện khó tưởng tượng của giai cấp tư sản đỏ
Ở miền Bắc sau khi nông dân thành vô sản, có người đã xử dụng sào đất quanh nhà nuôi ít con gà lấy trứng, trồng ít luống cà chua đem bán, đã bị cán bộ Hợp Tác Xã cảnh cáo là không được để cho đầu óc tư sản nổi dậy. Ở miền Nam sau 1975, mấy bà, mấy cô dấu ít kí đậu, ít kí cà phê trong người đã bị công an tịch thu với lời dạy bảo: Mua chui, bán chui là đầu óc tư sản gian thương. Nhưng sau khi Đổi Mới, trở về tư sản thì không có cái gì đè được đầu óc tư sản của đảng viên, cán bộ. Vì thế, cán bộ từ thấp đến cao đã tìm mọi cách ăn cướp để làm giàu và họ đã trở thành một giai cấp mới, giai cấp tư sản đỏ, mà phần trên đã nói. Còn ở phần này chúng tôi xin ghi lại mấy hiện tượng đặc biệt về sự phô bày giàu sang, phú quí của những ông quan ấy.
Thứ nhất, nhà và văn phòng của các quan đã trở thành mục tiêu làm ăn của trộm:
Tác giả Hương Khê trong bài Chọn Mặt Trộm Vàng đã ghi tên mấy chục quan chức bị trộm tước đoạt tiền bạc với những số tiền hàng trăm tỷ đồng, hàng triệu đô và hàng trăm lượng vàng. Có một vụ đặc biệt với tên trộm vui tính là vào đêm 27/7/2014, trộm đã vào phòng làm việc của ông Trịnh Văn Chiến, Chủ Tịch UBND tỉnh Thanh Hóa (nay là Bí Thư Tỉnh Ủy) lấy hàng chục tỷ đồng. Theo camara ghi lại, tên trộm sau khi khoắng được chiến lợi phẩm đã ung dung rải số phong bì và tiền ra bàn làm việc của ông Chiến, gồm 1 cọc tiền năm trăm triệu đồng (nguyên mác ngân hàng), 1 phong bì 10.000 USD ghi tên công ty Tratex, 1 phong bì 80 triệu đề tên d/c Nhuần, Cục Phó Cục Kiểm Lâm, 1 phong bì 50 triệu đề tên Bộ Phận Mầm Non Sở GD&ĐT Thanh Hóa... để chụp ảnh và ghi lại lời nhắn với dòng chữ “Hẹn lại lần sau nhé” (Bacaytruc.15/10/2017) .
Thứ nhì, các quan đã đua nhau xây dinh thự và biệt phủ nguy nga:
Nếu muốn thấy dinh thự của họ chỉ cần vào google vn, với mấy chữ Biệt Thự Của Chủ Tịch, Bí Thư tỉnh nào đó thì ta sẽ thấy được những toà lâu đài của họ. Chỉ vào google hơn nửa tiếng, chúng tôi đã có thể ngắm nhìn mấy chục biệt điện, biệt phủ, dinh thự đồ sộ với nhiều kiểu cách. Xin ghi lại mấy tên:
- Biệt phủ của Phạm Sỹ Quý, Giám Đốc Sở Tài Nguyên – Môi Trường, Yên Bái.
- Biệt thự nguy nga nhất đô thị Hòa Mạc, Duy Tiên, Hà Nam của Bí Thư Huyện Uỷ Duy Tiên Nguyễn Đức Vượng.
- Biệt thự xây dựng trên đất rộng hơn 16.000 m2 tại xã Sơn Đông, Bến Tre của ông Trần Văn Truyền, nguyên Tổng Thanh Tra Chính Phủ.
- Biệt phủ của gia đình ông Đặng Trần Chiêu, Giám Đốc Công An, Yên Bái.
- Biệt điện của Phạm Hồng Hà, Chủ Tịch UBND thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Ngôi biệt thự rộng khoảng 474 m2, có giá khoảng 70 triệu vnđ/m2.
- Lâu đài nguy nga của ông Hoàng Quốc Khánh, Ủy Viên Ban Thường Vụ, Chủ Nhiệm Ủy Ban Kiểm Toán tỉnh Sơn La.
- Vườn Thượng Uyển của con trai Bí Thư tỉnh Hải Dương, Bùi Thanh Tùng, vườn có tường gạch bao quanh, xây kiểu cổ như ngự uyển của vua chúa ngày xưa. Trong vườn có kỳ hoa dị thảo với những cây cổ thụ quý hiếm (vườn trong thành phố thì những cây cổ thụ này chắc phải được đào từ xa đem về).
Thứ ba, nguyên Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đã biến tư dinh của mình bên hồ Tây thành sân rồng để vua ngự triều:
Ngày 1 tết Ất Dậu (19/2/15), đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, do Bí Thư Trung Ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh hướng dẫn, đã tới chúc tết ông Nông Đức Mạnh, cho thấy tư dinh ông Mạnh đã trở thành 1 cung điện của thiên tử. Phải nói như thế, vì phòng khánh tiết (theo lời ông Mạnh) là một phòng rất lớn, lát đá hoa cương bóng lộn, đã không trưng bày đồ đạc gì ngoài bộ ngai vàng khắc đầu rồng với tượng bán thân Hồ Chí Minh, tất cả được nạm vàng. Nhìn suốt dọc phòng khánh tiết tới ngai vàng, ta có cảm tưởng đây là sân rồng để vua thiết triều. Nhìn ảnh ông Mạnh ngự trên ngai tiếp bí thư Vinh, mặt hớn hở, dáng bệ vệ, có lẽ ông nghĩ ông đang ngự triều, còn bí thư Đắc Vinh và mấy chục học sinh và quan chức tới chúc tụng là quan, dân vào triều kiến.
Sau khi những bức ảnh được đăng trên báo Tiền Phong online, cơ quan Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, đã gây nên những làn sóng phê phán ông Mạnh sống xa hoa, phung phí, kệch cỡm, đồng bóng lố bịch mà với cung cách vua chúa ấy, ông Mạnh đã coi mình là Mạnh vương. Còn chúng tôi thấy đó là thảm kịch lãnh đạo của đảng Cộng Sản, sự bất hạnh của dân Việt và sự đáng thương của một ông Tổng Bí Thư, đầu óc quá thấp lại tăm tối. Nhưng đó là vinh quang của đảng Cộng Sản trên đường về tư sản.
Kết luận
Qua những sự việc và nhận định trên đây, xin được kết luận như sau:
1. Từ việc bỏ chế độ vô sản trở về tư sản và với những chính sách của chế độ độc tài tư sản, trên 3 thập niên qua, đảng Cộng Sản Việt Nam đã tự hủy cái tên đảng Cộng Sản. Vì cộng sản sao được khi lãnh đạo và đảng viên đã tích tụ hàng trăm triệu, hàng tỷ Mỹ kim với cơ sở kinh doanh và biệt điện, biệt phủ trên khắp nước. Và cái tên xã hội chủ nghĩa cũng phải bỏ đi vì xã hội chủ nghĩa Mácxit-Lênin-nit cũng đã tự hủy khi đảng trở về tư sản. Còn xã hội chủ nghiã phổ biến hiện tại trên thế giới như xã hội chủ nghiã của những quốc gia Bắc Âu, Úc hay Canada với chính sách quân bình giàu nghèo và hệ thống an sinh xã hội vững chắc thì Việt Nam không thể đứng vào đây, vì những quốc gia ấy không có độc đảng, độc quyền, không có những tượng đài nghìn tỷ trước những đứa trẻ sinh hoạt như thú hoang (lời GS Ngô Bảo Châu). Trước sự thực ấy, ông Trọng và mấy trăm trung ương ủy viên nên tìm cho đảng một cái tên gì thích ứng với tài sản và những việc các ông đang làm. Các ông thử làm công việc chính danh một lần cho dân thấy, chớ làm triệu phú, tỷ phú đô la mà cứ phải mang cái xác cộng sản thì ngước mặt sao được trước những người dân đang sống bật máu quanh các ông.
2. Trên đường Phát triển chế độ tư sản kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, vì nhu cầu kéo dài chế độ, đảng Cộng Sản đã bám lấy Tàu và tự nguyện biến Việt Nam thành bãi rác công nghiệp của Tàu. Vì thế, 90% những dự án trọng điểm về điện, xi măng, hóa chất, cầu đường... đã lọt vào tay nhà thầu Tàu, và tất cả những dự án này, nhà thầu Tàu đã sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu Tàu đã phế thải. Vì thế, gần chục năm qua chúng ta đã nghe nhiều lời ta thán và cảnh báo về những bãi rác công nghiệp trên khắp nước. Về chuyện này, Bộ Trưởng Bộ Khoa Học Công Nghệ Nguyễn Quân khi được dân hỏi đã thú nhận: “Có khả năng chúng ta trở thành bãi rác công nghệ của thế giới. Điều này chúng tôi thấy hoàn toàn có khả năng, nếu như chúng ta không có những giải pháp, những hàng rào kỹ thuật”. Thưa ông Nguyễn Quân, dân Việt đang khốn đốn trước những đống rác khổng lồ có tên như Bauxite Tây Nguyên, nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh, nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1,2,3, Bình Thuận, nhà máy giấy Lee & Man sông Hậu... như thế những thứ này không phải là bãi rác thải hay sao mà lại còn nếu với khả năng gì nữa. Còn chuyện giải pháp và hàng rào kỹ thuật thì mới đây (13/9/17), khi Quốc Hội thảo luận về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật chuyển giao công nghệ, chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã hỏi: “Luật này rồi có khắc phục được Việt Nam đang và sẽ trở thành bãi rác công nghệ, hay là có giải quyết được vấn đề kiểm soát công nghệ và vai trò của cơ quan quản lý nhà nước?” Hỏi như thế là bà Ngân đã hiểu rõ thực trạng của thứ luật như có như không và không tin vào việc thi hành luật của cơ quan nhà nước trong chế độ mà bà đang là một trong 4 nhà lãnh đại cao nhất nước. Sự việc này ông Tô Văn Trường trong bài Tận Diệt Tài Nguyên đã cùng nhận định như bà Ngân khi viết: “Ở nước ta có hẳn một “rừng“ luật, nhưng lại vận động không theo luật” mà vận động theo lợi ích nhóm, mà nhóm ở đây là những tập đoàn của các quan tư sản đỏ. Thêm một việc sống động khác chứng thực mối lo của bà Chủ Tịch Quốc Hội là sau trận lụt chết trên năm chục trăm người ở miền Trung vừa qua, Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc ra lệnh đóng cửa rừng tự nhiên, nhưng gỗ vẫn ào ạt chạy ra khỏi rừng trên những độc đạo, vì ông Phúc không thể hóa thân thành trăm Phúc để đứng gác những con đường ấy.
Như thế nhìn lại Việt Nam, chúng ta có thể nói, trên thế giới, những quốc gia như Hàn, Đài Loan, Singapore, Indonesia, Mã Lai, Thái Lan...người ta phát triển để nâng cao đời sống, còn ở Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa thì phát triển để nâng cao cái chết. Đó là con đường mà đảng Cộng sản đã đi đến chỗ cùng của tham, ác và hèn và con đường ấy đã đẩy dân Việt tới chỗ cùng của cái sống bị cùng khổ, bị áp chế, bị tước đoạt và bị môi trường ô nhiễm đe dọa. Hai chỗ cùng này sẽ là nút chuyển lịch sử để dân Việt có thể đứng lên cướp lại đời sống yên lành, đồng thời giải phóng cho đảng Cộng Sản.