Vào
gần cuối thế kỷ 19, bị các nước Tây phương đe dọa, Trung Hoa khốn đốn không kém
Việt Nam, nhưng triều đình nhà Thanh (cai trị Trung Hoa 1644-1911) vẫn tự nhận
Trung Hoa là thượng quốc, có ưu quyền đối với Việt Nam.
1.- TRUNG HOA TỰ NHẬN ƯU QUYỀN THƯỢNG QUỐC
Trên
đường tìm kiếm thuộc địa sau cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu, Pháp viện dẫn lý
do triều Nguyễn (cai trị Việt Nam 1802-1945) đàn áp Ky-Tô giáo, Pháp đem quân tấn
công Đà Nẵng ngày 1-9-1858, mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam. Pháp chiếm các tỉnh Gia Định, Định Tường,
Biên Hòa, Vĩnh Long, buộc triều đình Huế phải ký hòa ước ngày 5-6-1862, nhượng
ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ) cho
Pháp.
Không
dừng lại ở đó, Pháp tiếp tục chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An
Gia, Hà Tiên năm 1867, và tiến quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhứt năm 1873, chiếm
Hà Nội, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định.
Pháp ép triều đình Huế ký hòa ước ngày 15-3-1874, nhường đứt luôn ba tỉnh
miền Tây Nam Kỳ cho Pháp, để Pháp trả lại các tỉnh Bắc Kỳ.
Hòa
ước ngày 15-3-1874 gồm 22 điều khoản, trong đó điều khoản số 2 nói rằng “Tổng thống Pháp nhận Đại Nam là một quốc gia
độc lập, không phải thần phục nước nào, hứa giúp Hoàng đế Đại Nam nếu cần, bảo
vệ an ninh trong và ngoài nước.” Điều
khoản số 3 tiếp theo “Để đáp lại sự bảo hộ
ấy, Hoàng đế Đại Nam từ nay chịu theo chính sách ngoại giao hiện thời của nước
Pháp.” Nói cách khác, từ nay Việt
Nam phải lệ thuộc nền ngoại giao của Pháp, và không được thần phục hay giao thiệp
với nước khác mà không có sự đồng ý của Pháp.
Câu
nầy được tòa lãnh sự Pháp dịch qua Pháp văn theo nghĩa là: “An Nam cũng là xứ được gọi là Việt nam. Xứ nầy từng là nước thần phục Trung Hoa.”
(Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện
với Pháp và Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa học Xã hội,
1990, tr. 142.) Do cách hành văn khác
nhau, Trung Hoa nghĩ rằng họ đã phản đối Pháp, nhưng Pháp lại cho rằng Trung
Hoa chẳng phản đối gì.
Trong
cuộc tiếp xúc với thủ tướng Pháp là Charles de Freycinet ngày 25-1-1880, đại sứ
Trung Hoa tại Pháp là Tăng Kỷ Trạch khẳng định với Pháp rằng Việt Nam là chư hầu
của Trung Hoa. (Yoshiharu Tsuboi, sđd.
tr. 142.) Vua Trung Hoa lúc nầy là Quang
Tự (Kuang-hsu) hay Thanh Đức Tông (Qing Te-tsung, trị 1875-1908) mới 10 tuổi và
bà thái hậu Từ Hy (Tzu-His hoặc Ci Xi, 1835-1908) giữ quyền nhiếp chính.
Tăng
Kỷ Trạch còn viết thư ngày 10-11-1880 khi ông đến St Pétersbourg (Nga), yêu cầu
ngoại trưởng Pháp cho Trung Hoa biết lập trường của Paris về những biến chuyển ở
Bắc Kỳ. Trong thư trả lời ngày
27-12-1880, ngoại trưởng Pháp Barthélemy St. Hilaire đáp lại rằng theo điều 2
hòa ước 1874, Pháp có bổn phận và trách nhiệm với Việt Nam. Thư nầy được gởi đến cho Tăng Kỷ Trạch và
chính phủ Trung Hoa.
Tăng
Kỷ Trạch cho đại diện Pháp ở St. Pétersbourg biết rằng Pháp có thể chiếm Trung
Kỳ, nhưng nếu chiếm Bắc Kỳ thì sẽ gây quan ngại cho Trung Hoa, vì vùng nầy tiếp
giáp với biên giới Trung Hoa. Ngoại trưởng
Pháp liền ra lệnh cho viên đại diện Pháp báo cho Tăng Kỷ Trạch biết rằng từ năm
1874, ngoài nước Pháp Việt Nam đã hoàn toàn cắt đứt liên hệ với các nước khác.
(Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn
1883-1945, tập 1, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274.)
Về
phía Việt Nam, dầu đã ký hòa ước 1874, chịu nhận nền ngoại giao Pháp, vua Tự Đức
vẫn gởi phái bộ ngoại giao sang Trung Hoa năm 1876, để chúc mừng vua Thanh Đức
Tông (Te-tsung) (trị vì 1875-1908) tức vua Quang Tự (Kuang-hsu), lên thay vua
Thanh Mục Tông (Mu-tsung) (trị vì 1862-1874) tức vua Đồng Trị (T'ung-chih) từ
trần năm 1874. Tháng 7-1880, vua Tự Đức
còn cử sứ sang Trung Hoa thêm lần nữa.
Chuyến đi nầy, chẳng những có tính cách ngoại giao thông lệ bốn năm một
lần cống sứ, mà còn để nhờ Trung Hoa giúp đỡ.
Năm
sau (1881), Trung Hoa gởi Đường Đình Canh sang kinh đô Huế bàn chuyện buôn bán,
lập chiêu thương cuộc. Những sự kiện nầy
không thể qua mặt người Pháp. Khâm sứ Pháp tại Huế là Rheinart đã báo cáo đầy đủ
các chuyến đi sứ của Việt Nam sang Trung Hoa cho thượng cấp ngày 2-8-1882.
(Yoshiharu Tsuboi, sđd. tt. 298-299.)
Về
phía nhà Thanh, tại Bắc Kinh, đại diện Trung Hoa phản đối với đại sứ Pháp, cho
rằng Việt Nam là thuộc quốc của Trung Hoa và yêu cầu Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ
để duy trì tình hữu nghị Hoa Pháp. Tại
Paris, ngày 6-5-1882, đại sứ Tăng Kỷ Trạch cũng lên tiếng phản đối Pháp và yêu
cầu Pháp rút quân.
Thủ
tướng Pháp là Freycinet cho rằng lời lẽ của họ Tăng bất nhã, nên thông báo cho
đại sứ Pháp tại Bắc Kinh tin cho chính phủ Trung Hoa biết rằng Pháp sẽ không
nói chuyện với Trung Hoa và yêu cầu Trung Hoa đừng xen vào chính sách Pháp ở Bắc
Kỳ. (Alfred Schreiner, Abrégé de
l'histoire d'Annam, Sài Gòn: 1906, tr. 353.)
Về
quân sự, ngày 30-6-1882, tổng đốc Vân Nam (Trung Hoa) loan báo rằng quân đội
Trung Hoa sẽ tiến vào lãnh thổ Bắc Kỳ để truy đuổi các thổ phỉ Cờ đen. Trong tháng sau, tướng Tạ Kính Bưu đem ba
doanh quân Vân Nam đến đóng tại Quản Ty (Hưng Hóa). [Một doanh khoảng 1,000 quân.] Vào tháng 9, nhà Thanh cử tướng Hoàng Quế Lan
đem mười hai doanh quân đóng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc
Ninh, và tướng Triệu Ốc đem năm doanh quân đóng ở Tuyên Quang. Tài liệu Pháp cho rằng số quân Trung Hoa tại
Bắc Kỳ lúc đó lên đến 20,000 người. Dầu
vậy, lực lượng Trung Hoa dần dần bị Pháp đẩy lui.
Trong
thực tế, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam nhắm mưu lợi, chứ chẳng phải thực tâm
giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, nên khi thấy không thể chiến thắng được Pháp,
Trung Hoa quay qua thương thuyết với Pháp để chia phần ở Việt Nam.
2.- TRUNG HOA ÂM MƯU CHIA HAI BẮC KỲ VỚI PHÁP
Ngày
27-10-1882, Paris thông báo cho đại sứ Pháp ở Trung Hoa là Bourée biết, trong
phiên họp ngày 21-10, chính phủ Pháp quyết định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói
chuyện với Bắc Kinh. Trước sự cương quyết
của Pháp, vào đầu tháng 11-1882, Lý Hồng Chương (Li Hongzhang hay
Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng lý nha môn, cơ quan phụ trách
ngoại giao của triều đình Trung Hoa, đề nghị với Bourée rằng Trung Hoa và Pháp
chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo cáo
sáng kiến của Lý Hồng Chương về Pháp.
Lúc
đó, các chính phủ Paris kế tiếp nhau, đều muốn chiếm Bắc Kỳ nhưng vừa ngại tốn
kém vì Quốc hội Pháp không chuẩn chi, vừa ngại đụng chạm với Trung Hoa, nên đường
lối của chính phủ Pháp không rõ ràng và hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée cho Paris biết là Bắc
Kinh đã ra lệnh quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ về Vân Nam và Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy, bộ Hải quân và Thuộc địa
Pháp ra lệnh cho soái phủ Sài Gòn tránh đụng chạm với quân Trung Hoa. (Vũ Ngự
Chiêu, sđd. tr. 291)
Ngày
20-12-1882, tại Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), Bourée và Lý Hồng Chương ký tạm
ước về Bắc Kỳ, theo đó Trung Hoa chiếm phía bắc sông Hồng (vùng núi non và hầm
mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông Hồng (vùng châu thổ, sản xuất nông phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng Trung
Hoa, nhưng người Pháp được quyền tự do buôn bán với Vân Nam. (Khối Quân sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945),
Quân sử III, Sài Gòn: Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, 1971,
tr. 164.) Tạm ước nầy thật ra rất mơ hồ,
chỉ lấy sông Hồng chia hai địa phận, nhưng chưa vạch ra cụ thể ranh giới giữa
hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc Kỳ.
Tuy
nhiên, chẳng bao lâu, tạm ước Thiên Tân
bị bãi bỏ. Nguyên tại Paris, chính phủ Charles Duclerc sụp đổ ngày
22-1-1883. Armand Fallières tạm thay một
thời gian, thì Jules Ferry trở lại làm thủ tướng lần thứ hai ngày
21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về vấn
đề Ai Cập (Egypt) vì nước nầy đã do nước Anh đô hộ từ 1882. Jules Ferry dồn nỗ lực về phía Việt Nam.
Việc
làm đầu tiên của chính phủ Jules Ferry về Việt Nam là bãi bỏ tạm ước Thiên Tân mà Bourée đã ký với Lý Hồng
Chương, vì theo chính phủ nầy, tạm ước đã giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi
ở Bắc Kỳ. Quyết định bãi bỏ được báo cho
Trung Hoa biết ngày 5-3-1883. Hai tháng
sau, đại sứ Bourée bị triệu hồi. Chính
phủ Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại Nhật Bản, sang Bắc Kinh làm đại sứ
từ ngày 1-6-1883.
Ngày
18-8-1883, đại sứ Trung Hoa là Tăng Kỷ Trạch giao cho chính phủ Pháp lập trường
sáu điểm của Trung Hoa về Bắc Kỳ, theo đó:
(1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp không được chiếm bất cứ phần lãnh thổ nào của
An Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung Hoa; (3) Pháp phải triệt binh khỏi những nơi đã chiếm của An
Nam, mở một số hải cảng để giao thương, và các cường quốc có quyền đặt tòa lãnh
sự tại các cảng nầy; (4) Sông Hồng phải được mở rộng để giao thương; (5) Trung
Hoa sẽ bảo đảm việc tự do giao thương trên sông Hồng; (6) Những hòa ước giữa
Pháp va Việt Nam phải được Trung Hoa chấp thuận. (Vũ Ngự Chiêu, tt. 328-329.)
Trong
khi đó, Pháp đưa quân từ Bắc Kỳ, tiến đánh cửa Thuận An (Huế) ngày
20-8-1883. Thất bại, triều đình Huế đành
xin điều đình và ký hòa ước ngày 25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều 1
viết rằng “Nước Nam nhận và chịu sự bảo hộ
của nước Pháp với những hậu quả của mối tương giao nầy theo luật pháp ngoại
giao Âu Châu, nghĩa là nước Pháp chủ trương mọi sự giao thiệp của nước Nam với
các nước ngoài, kể cả nước Tàu, và nước Nam có giao thiệp ngoại giao với nước
nào thì chỉ do một mình nước Pháp môi giới mà thôi.”
Bảo
hộ xong Việt Nam, hai ngày sau, ngoại trưởng Pháp từ chối yêu cầu sáu điểm của
Trung Hoa trong thư trả lời ngày 27-8, và cho Trung Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng
giải quyết vấn đề an ninh biên giới và quyền lợi người Hoa buôn bán trên sông Hồng.
Ngoại
trưởng Pháp còn gởi công văn ngày 15-9-1883 cho chính phủ Trung Hoa, một lần nữa
xác nhận rằng Pháp không chấp nhận tạm ước Thiên
Tân ngày 20-12-1882, giữa đại sứ Bourée và Lý Hồng Chương về Bắc Kỳ. Công văn ngày 15-9 còn đưa ra đề nghị mới của
Pháp gồm hai điểm: (1) Lập một khu phi quân sự giữa hai vĩ tuyến 21 và 22, nếu
một bên muốn động binh để đánh dẹp thổ phỉ thì phải có sự đồng ý của bên kia.
(2) Thị trấn Man Hao trên sông Hồng trong lãnh thổ Trung Hoa sẽ được mở ra cho
việc giao thương. Chính sách của chính
phủ Jules Ferry được Quốc hội Pháp hậu thuẫn mạnh mẽ trong cuộc đầu phiếu tại
Quốc hội ngày 31-10-1883. (Vũ Ngự Chiêu, sđd.
tt. 330-332.)
Hai
chính phủ Pháp Hoa tranh cãi không dứt về vấn đề Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền tại miền Bắc Kỳ, trong
khi Trung Hoa muốn chia một phần Bắc Kỳ cho Trung Hoa, và bảo đảm an toàn biên
giới Việt Hoa. Trung Hoa tin tưởng rằng
Pháp khó có thể chiến thắng lực lượng Trung Hoa ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, Trung Hoa còn hy vọng hai nước Anh
và Đức sẽ can thiệp, nhưng lúc đó, Anh đang bận rộn ở Ai Cập và Đức muốn Pháp
bành trướng ở Bắc Kỳ hơn là tập trung lực lượng để chống Đức ở biên giới giữa
hai bên.
Cuối
cùng, tại Bắc Kỳ, Pháp đã đánh đuổi quân Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền
biên giới, làm chủ tình hình Bắc Kỳ. Lúc
đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi được ở Việt Nam mà còn lo ngại Pháp sẽ tiến chiếm Đài Loan hay Hải
Nam để đòi chiến phí, nên Trung Hoa bắt đầu thay đổi chính sách.
3.- HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ NHỨT (11-5-1884)
Đầu
tiên, Lý Hồng Chương, nhờ một thân hữu tên là Detring, người Đức, công chức cao
cấp trong ngành thương chánh Trung Hoa và đã phục vụ 20 năm ở Quảng Châu, vận động
với chính phủ Pháp. Vào tháng 4-1884,
Detring đem việc nầy thảo luận với một người bạn là trung tá Ernest François
Fournier, hạm trưởng tuần dương hạm Volta,
đang đóng ở Quảng Đông. Fournier trình
bày lại ý định của Lý Hồng Chương với cấp chỉ huy là phó đô đốc Lespès, tư lệnh
hạm đội Pháp tại Trung Hoa và Nhật Bản.
Một mặt, Lespès thuận cho Fournier nói chuyện với Lý Hồng Chương, một mặt
Lespès trình về Paris.
Fournier
nhờ Detring chuyển cho Lý Hồng Chương một văn thư cho biết các điều kiện về phía
Pháp để đi đến một cuộc dàn xếp với Trung Hoa: giải nhiệm đại sứ Tăng Kỷ Trạch,
từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam, rút lui quân đội Trung Hoa khỏi Bắc Kỳ, và bồi
hoàn chiến phí. (Alfred Schreiner, sđd.
tt. 371-372.)
Để
tỏ thiện chí, triều đình Trung Hoa quyết định chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp của
Tăng Kỷ Trạch, mà vẫn giữ ông ta làm đại sứ ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh Trừng
làm đại sứ tại Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan và Áo.
Cuộc
nói chuyện tiếp tục, Fournier đến Thiên Tân, gặp Lý Hồng Chương và nhanh chóng
ký hiệp ước ngày 11-5-1884, gồm năm khoản, thường được gọi là hiệp ước Fournier hay hiệp ước Thiên Tân, đại để như sau: 1) Pháp hứa tôn trọng biên giới Việt Hoa. 2)
Trung Hoa cam kết rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng những hòa ước ký kết
giữa Pháp và Việt Nam. 3) Pháp không đòi bồi thường chiến phí. 4) Hủy
bỏ những hiệp ước trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam, và nuớc Pháp cam kết
không làm tổn hại thể diện Trung Hoa.
5) Hai bên thỏa thuận sẽ gặp nhau
lại trong vòng 90 ngày để ký kết hiệp ước chính thức.
Ernest
F. Fournier tiếp tục thương lượng với Lý Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút
quân. Ngày 17-5, Fournier trao cho Lý Hồng
Chương một giác thư (mémorandum) theo đó Pháp sẽ tiếp thu Lạng Sơn, Cao Bằng
ngày 5-6-1884, và Lào Cai ngày 1-7-1884. (Alfred Schreiner, sđd. tr. 362.)
Nhận
được tin nầy, trung tướng Millot, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng
Pháp có thể chiếm đóng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông cử
quân đi tiếp thu Lạng Sơn. Trên đường đi
Lạng Sơn, ngang qua thị trấn Bắc Lệ ngày 22-6, đoàn quân Pháp bị quân Trung Hoa
tấn công dữ dội và gây thiệt hại nặng nề.
Chính
phủ Paris được tin vụ Bắc Lệ, liền ra lệnh cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi cho
triều đình Mãn Thanh một tối hậu thư ngày 12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh
quân đội mình lập tức rời Bắc Kỳ, hạn chót là 31-7, và triều đình Trung Hoa phải
bồi thường 250 triệu quan chiến phí, nếu không Pháp sẽ đánh Trung Hoa.
Phó
đề đốc Courbet, đang chỉ huy hạm đội Pháp ở Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ huy hạm
đội Pháp ở Trung Hoa, đem quân đến cửa sông Mân ở Phúc Châu (Fou-Tchéou), thủ
phủ tỉnh Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7, trong khi một hạm đội Pháp khác đến đảo
Cơ Long (Kélung) ở eo biển Đài Loan.
Ngày 5-8-1884, Pháp bắt đầu tấn công, gây thiệt hại nặng cho Trung
Hoa.
Trên
biển, hạm đội Pháp truy lùng và tấn công các tàu của Trung Hoa, phong tỏa cửa
sông Dương Tử (Yang-tse), vùng Thượng Hải, và cho đến cuối tháng 3-1885, Pháp
làm chủ hoàn toàn quần đảo Bành Hồ (Pescadores) ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, tt. 227-228.)
4. HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ HAI (9-6-1885)
Trong
khi Pháp khó thắng Trung Hoa, thì rõ ràng Trung Hoa thất thế cả ở Trung Hoa lẫn
ở Bắc Kỳ. Cả hai bên Pháp và Trung Hoa đều
muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì hoàn cảnh riêng của mỗi bên. Sau những cuộc thảo luận kéo dài, hai bên dự
tính đi đến việc ký kết hòa ước vào cuối tháng 3-1885, thì chính phủ Jules
Ferry sụp đổ. Chính phủ Brisson lên thay
thế. Bộ trưởng ngoại giao vẫn là Charles
Freycinet.
Cuộc
đàm phán về một hòa ước mới bắt đầu tại thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885
giữa hai bên Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp
ước hoà bình, hữu nghị và thương mại ký ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre
(đại diện Pháp) và Si Tchen, Lý Hồng Chương và Teng Tcheng Sieou (đại diện
Trung Hoa). Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai nầy gồm 10 điều khoản, có thể được tóm lược
như sau:
Trung
Hoa đồng ý rút quân về nước (điều 1).
Trung Hoa nhìn nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam (điều 2). Hai bên sẽ tiếp tục hòa đàm về vấn đề biên giới
Việt Hoa (điều 3). Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp ước thương mại (điều 5, 6,
8). Pháp đồng ý rút quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ (điều 9). Như thế là chiến tranh Pháp Hoa về vấn đề Bắc
Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một phái đoàn đến Hà Nội để giúp chấm
dứt tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà Thanh trở về Trung Hoa.
KẾT
LUẬN
Dầu
Việt Nam, quốc hiệu của nước ta từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, là một
nước độc lập, Trung Hoa vẫn mặc nhiên xem Trung Hoa là thượng quốc và có ưu quyền
với Việt Nam. Khi người Pháp xuất hiện,
Trung Hoa tự xem có quyền thương lượng với Pháp về Việt Nam, chia phần với Pháp và quyết định số phận
Việt Nam. Cho đến khi bị Pháp đánh bại,
Trung Hoa đành nhượng bộ, nhưng vẫn không từ bỏ định kiến “thượng đẳng” đối với
Việt Nam, và chờ đợi cơ hội để tái lập quyền lực hoặc mưu cầu quyền lợi trên đất
nước Việt Nam. Cơ hội đó là việc giải giới
quân đội Nhật Bản ở Đông Dương sau thế chiến thứ hai, vào năm 1945.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
24-6-2018)