"Thưở em về xác thịt tẩm hương hoa
Ta trông thấy cả trời ta mơ ước"
("Kỳ nữ" thơ Ðinh Hùng)
Hơi thở mong manh nhỏ nhoi là cái mà cả đời sống con người dựa trên đó. Chỉ vài phút ngưng thở thôi là mọi thứ đều tiêu tùng. Người yêu, kẻ thù, cái xấu, đẹp, gia đình, tổ quốc, vũ trụ ... thảy thảy đều còn đấy, nhưng cái xác thân không còn tiếp nhận được nữa. Còn chăng là cái mà cụ Nguyễn Du đã gọi là "tinh anh"
"Thác là thể phách, còn là tinh anh"
Sự tiếp nhận ngoại vật đến thân xác con người phải qua ngũ giác: Thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác. Và cái giác quan trong ngũ giác luôn luôn kề cận với từng hơi thở đương nhiên là "khứu giác".
Khi đứa bé vừa chào đời, bị phát một cái đét vào mông khóc óe. Tiếng khóc để giao một trách nhiệm mới tới buồng phổi là lọc trực tiếp khí trời, đó cũng là lúc cơ quan khứu giác bắt đầu tiếp nhận những mùi của trần gian.
Như vậy, cái mùi đầu tiên đậm nồng nhất đến với đa số các em bé sinh ở trong những thành phố ân tiến là mùi của khu bảo sanh, sạch sẽ, khử trùng. Còn vào thời đại tôi đã được sinh ra ở miền quê xa xôi, cái mùi đầu tiên ấy chắc không được như vậy, có lẽ nó gần với cái mùi mà Nguyễn Bính đã viết:
"Hôm qua, em lên tỉnh về
Hương đồng, cỏ nội, bay đi ít nhiều"
Hương của đất, của đồng lúa, cỏ cây, của những người thân, của xóm làng. Cái mùi đó có thể không là hương thơm vì thể nào mà chả có mùi phân trâu bò, mùi đất bùn của một ngày mưa phùn mùa đông lẫn vào.
Như thế cái mùi quyến luyến nhất chắc là mùi của mẹ rồi, và sự chờ mong thèm muốn đương nhiên là mùi của sữa mẹ. Thưở đó làm gì mà có sữa bột như bây giờ. Ðang đói lại được mẹ cho vào miệng bầu vú căng thì cảm giác êm ái phải là tuyệt vời lắm. Thiên nhiên lại yêu mến ban cho phần đông những đứa bé một hạnh phúc là yêu sữa mẹ mình , cái mùi mà đến khi lớn, chắc chẳng ai còn nhớ rõ.
Bây giờ cố nhớ lại, mùi đầu tiên mà tri thức còn giữ, có lẽ là mùi của mẹ, sau đó là mùi than của bếp, rồi mùi lạnh của cơn gió, lạ nhỉ mùi lạnh của gió là gì? lạnh và nóng phải là phạm vi của xúc giác chứ? Mặc! kỷ niệm vẫn khăng khăng, không! đấy là mùi của gió lạnh, vậy là mình chắc không như Xuân Diệu để
"Ðã nghe rét mướt luồn trong gió
Ðã vắng người sang những chuyến đò"
mà phải là
"Ðã ngửi thấy rét mướt luồn trong gió ..."
Sao mà giống các chú cẩu thế. Rồi thì sau đó là mùi của miền Nam nhiệt đới, mùi của mưa trên đất,
mùi của những chăn dầy thoảng hơi mốc vì chỉ dùng vài lần trong năm, mùi áo len có dính băng phiến, mùi bồ kết từ tóc mẹ...
Không thể lướt nhanh qua mùi của mưa trên đất miền Nam được. Ðất còn dang nóng khô dưới ánh mặt trời nhiệt đới, bỗng dưng bị tưới đổ những giọt mưa nặng hạt. Mưa chưa kịp thấm đất đã tạnh. Nắng lại trở về, nóng lại tới hừng hực, hơi đất xông lên gây một cảm giác choáng váng, buồn nôn. Mùi đất chui vào thân thể một cách hung bạo, cuồn cuộn đột kích lên óc. Làm sao mà từ khước, làm sao mà quên được mùi của những cơn vừa mưa, vừa nắng. Trú mưa dưới một mái hiên nhà, tránh bị ướt áo nhưng không thể tránh được mùi đất bốc, phải chia chung thân phận của những đổi thay bất chợt không thể lường.
Tuy nhiên, mùi đất miền Nam của mưa đêm lại êm dịu biết bao. Mưa bắt đầu rả rích khoảng ba, bốn giờ chiều để đến chín, mười giờ đêm mà tạnh thì mùi đất nhẹ vô cùng, quyến luyến cùng thinh không quyện vào với mùi hoa lan nhà hàng xóm thoảng đến từ xa. Ngồi dưới mái hiên nhà để đón nhận những hương đêm của quê nhà, của thành phố SàiGòn sau khi đã đẩy khuất những mùi khói xe, gột cái tục của trần gian xô bồ. Còn mùi đất của những cơn mưa sáng lại cho một cảm giác thanh thoát của sự đổi mới, trinh nguyên.
Rồi mùi của những ngày giỗ tết, có thức ăn thơm lừng, này là mùi bóng, nọ là mùi chả giò, rồi mùi nhang cúng, rõ hơn là mùi pháo đã gần át mùi bánh chưng, trên phòng khách là mùi hoa thủy tiên rất nhẹ và mùi trà ướp sen. Nhẹ nhàng từ tốn mà cắn từng cái hạt dưa cũng thấy mùi của cái vỏ chạm nhẹ vào đầu lưỡi trước khi mùi thơm rất kín đáo của cái nhân kịp đến.
Sau đó là những mùi hôi thối cũng có chỗ của chúng, mùi hoa thối không thể tả của một cái cây cổ thụ đằng sau nhà, tên là gì không ai nói rõ cho biết (cây "chôm" ??), hoa chỉ bé bằng đầu ngón tay nhưng mùi thì hôi vô địch. Mùi khai nồng của cái hẻm mà khách bộ hành thỉnh thoảng ngừng lại mở nút quần thả nước, mùi của giòng sông đen mà trên đó không biết bao nhiêu cái cầu tiêu công cộng, và tư nhân xây trên đó đã dùng như một ống cống lộ thiên.mùi của lá mơ mà bạn bè trong xóm gọi là "lá thúi địt", rồi mùi của đống rác dưới cầu Trương Minh Giảng, khiến ai qua cũng phải bịt mũi, mùi chợ cá Trần Quôc Toản, mùi cống rãnh của thành phố bỗng dưng phải nhận một con số di dân khổng lồ, mùi không thể tránh như chuột chết, cứt đái mèo, mùi của đồ gỗ và mùi máu của rệp bị dí chết.
Ngoài những cái mùi "tự nhiên" đó còn có mùi khét lẹt của những trận cháy lớn, mùi chiến tranh của trận tết Mậu Thân, mùi chiến trận trên áo của những người anh, và bạn bè về phép. Mùi quê hương đã chôn sâu lâu lắm để phủ trên đó những mùi của những quốc gia mà bước đời đã trải qua, mỗi một vùng, một thành phố như có một mùi riêng. Tới một thành phố ven biển vào một ngày trong tuổi thanh xuân, mấy năm sau đó về lại, cái kỷ niệm như được đánh thức rõ nhất nhờ những mùi hương cũ lẫn trong gió biển mặn.
Những cái vùng để mùi khó quên là mùi của khí trời trên ngọn Phú Sĩ lạnh buốt vào lúc trời mọc hồng ở chân trời, người Nhật quì xụp xuống khấn vái, trơ trẽn còn lại mình chỉ biết hít khí trời giải khuây, còn mùi của cái quán ăn sinh viên đại học vào mùa thu Tokyo, mùi rong biển của miếng ShuShi đầu tiên trong đời, mùi cà phê quyện với croissant của những buổi sáng Paris lành lạnh. Phải vậy, phải lạnh mới giữ được mùi lâu, nhưng đừng lạnh quá sẽ làm tê liệt đi phần nào khứu giác. Còn mùi của những hầm rượu của khu xóm học Latin nữa chứ, mùi rượu đỏ có hòa cam, táo lẫn vào mùi khói thuốc ống điếu, mùi của khu nghệ sĩ bất cần đời .
Nhưng lạ nhất vẫn là mùi của con người. Không hiểu ai khác thấy sao? chứ tôi ngửi thấy mùi da khét từ người Phi Châu, mùi "rệp", mùi "trừu" từ người Ả Rập, mùi bơ, sữa, bò từ người Âu Châu. Người ta cho rằng ăn thức ăn gì thì người sẽ có mùi đó. Phải đúng thế chăng? nhưng nếu vậy dân ta và một số người vùng Ðông Nam Á ăn mắm, chắc phải có mùi mắm à?
Cái mùi quan trọng lắm lắm trong sự giao tiếp con ngườị Các cô, các bà rất thích tẩm nước hoa vì chẳng những gây thơm tho cho mình, mà còn gây sự quyến rũ nữa. Các hãng nước hoa Pháp như Chanel đã chẳng giầu sụ hay sao?
Nhưng ở Á Châu xưa kia, và hình như cho cả tới nay, người ta có vẻ chuộng những mùi thơm thoang thoảng hơn, các phòng tiểu thư khuê các, giầu có nhiều khi cho lót tường bằng gỗ quế, hẳn mùi thơm nồng nóng:
"Trải vách quế gió vàng hiu hắt" (Cung oán ngâm khúc)
Khách qúy đến thì đốt hương trầm để gây niềm thân kính
"Mai sau dù có bao giờ
Ðốt lò hương cũ so tơ phiếm này" (Kiều)
Sắc đẹp rất có thể gây quyến rũ lúc đầu, nhưng theo tôi mùi hương của mỹ nhân mới thực sự làm cho nam nhi đam mê mà nhớ mãi. Trong dã sử Việt Nam có nói đến mùi mồ hôi của bà quí phi Ðặng thị Huệ thời một ông chúa Trịnh mê gái, có mùi thơm tự nhiên. Ôi chao, nếu quả thật như thế thì thể nào ông ấy chẳng đam mê mà đến mất cả cơ đồ vì người đẹp Phù Ðổng ấỵ.
Mùi hương của phái nữ, theo thiển ý, không cần phải thơm ngào ngạt, giả tạo lắm! mỗi một người hãy giữ mùi tự nhiên của mình, khi đã yêu thì cái chuyện nghiện mùi nhau cũng đến rất tự nhiên thôi.
"Chim Quyên ăn trái nhãn lồng
Thia lia quen chậu vợ chồng quen hơi"
Dĩ nhiên đó là nói chung chung, có những mùi hương nặng quá thì có yêu đến mấy chắc cũng bị phiền. Tuyệt nhất là thân thể sạch sẽ mà thoảng mùi tựnhiên, Ðặng thị Huệ chăng? Liều lĩnh nhưng thành thật mà thưa rằng cái mùi quyến rũ nhất phải dựa trên một tí gì không thơm. Nhà chế tạo nước hoa sẽ tiết lộ rằng cái đặc biệt của vài loại nước hoa tinh cất là có mùi hôi đấy. Ngay cả mùi nước hoa rất đắt tiền là Poison cũng có mùi hôi làm điểm tựa nhỏ.
Các cô, các bà có tin không khi nghe rằng một số những loại nước hoa đàn ông dùng sau khi cạo râu đã được chế tạo với một chút nước đái heo để gây quyến rũ?
Cặp tình nhân đang trôi nổi trong sóng bể yêu đương dễ bị kích thích bởi những mùi không có hương của cái thơm bình thường, mùi hương tội lỗi chăng? Thôi ngừng đây đừng đi quá trớn, nhưng phải nhấn mạnh là cái mùi đóng vai trò tối quan trọng trong tình chăn gối. Sinh ra với ngũ giác quan đầy đủ là một hạnh phúc, giữ được chúng trọn vẹn cả đời là điều diễm tuyệt. Nếu mà chẳng may mà bị kiếm khuyết một trong những giác ấy thì đời buồn lắm. Cụ Nguyễn Khuyến về già mắc chứng mù loà, còn bị Chu Mõnh Trinh chơi khăm gửi biếu một chậu hoa trà, là loại hoa không hương, cụ bực mới làm bài thơ sau:
Tết đến người cho một chậu trà.
Ðương say còn biết cóc đâu hoa!
Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,
Áo tía đai vàng, bác đó a?
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá,
Gió to luống sợ lúc rơi già!
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
Ðếch thấy hơi thơm, một tiếng khà!
(Trích trong Giai thoại văn học VN của Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch)
Còn nếu được trời thương mà cho thưởng những ưu đãi của cuộc đời thì sẽ thấy cái câu mà nhiều người cho là của vua Tự Ðức là tuyệt bút:
"Ðập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi "
Cái ăn chỉ đến mức ngon tuyệt khi có món uống ngon đi cùng, và cái đẹp khác người cần phải có hương thơm.
Do đó trong ngôn ngữ ta có động từ "hôn hít", hôn không nào đã đủ đâu nào!
Thơ Việt Nam có câu "Ðập cổ kính ra ..." để làm chứng cho sự thưởng thức cái đẹp của một số người Việt Nam. Những cái tầm thường như xác thân, gương, áo đã cho những ân sủng vô bờ. Tạ ơn đời, tạ ơn hoa, tạ ơn người cho sắc, cho hương.
Phạm thế Ðịnh