-
Kính mừng sinh nhật thứ 93th của
Đề Đốc TRẦN VĂN CHƠN –
Hải Quân Thiếu Tướng – nguyên Tư
Lệnh Quân Chủng Hải Quân của QL / VNCH.
-
Kính tặng tất cả các chiến sĩ Hải
Quân – QL/VNCH
Xã hội Trung Hoa và nước Trung Hoa hoàn bị
trước xã hội và nước Việt Nam của chúng
ta vài trăm năm ( Sử gia Trần Trọng Kim cho rằng năm 2879 trước Công Nguyên là
năm bắt đầu của vua Hùng Vương thứ nhất). Ngay từ thời Thượng Cổ, người Trung
Hoa đã có những triết gia lớn như Khổng Tử, Lão Tử. Mặc Địch, Dương Chu…đồng thời cũng
có các nhà tư tướng lớn về chính trị như các pháp gia Thân Bất Hại, Hàn
Phi, Quỷ Cốc, Thi Giảo, Điền Biền…Trong lãnh vực quân sự, Trung Hoa cũng có những
binh gia nổi tiếng như Tôn Vũ, Ngô Khởi… (nhất là quyển sách BINH PHÁP do Tôn
Vũ biên soạn, hiện nay vẫn là quyển sách
căn bản cho “chiến tranh cổ điển” được các trường Võ Bị và các Học Viện Quân Sự
giảng dạy tại các quốc gia hùng mạnh trên thế giới). Người Trung Hoa tự hào đất
nước của họ là “Trung Tâm Tinh Hoa của Thế Giới ”, nên họ tự cho họ có quyền
xâm chiếm các lãnh thổ của các sắc dân yếu kém khác sống chung quanh họ với mục
đích truyền bá “văn minh Trung Hoa” , nhưng các nhà lãnh đạo Trung Hoa quên rằng,
các dân tộc và các quốc gia nhỏ bé sống
xung quanh Trung Hoa chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa chứ họ không muốn lệ
thuộc vào Trung Hoa.
1/ Cuộc chiến tranh chống lại quân Mông Cổ
xảy ra vào đời nhà Trần (thế kỷ thứ 13 sau Cộng Nguyên)
2/ Cuộc kháng chiến đánh đuổi quân nhà Minh
vào đầu thế kỷ 15 do Lê Lợi lãnh đạo.
3/ Cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược
Mãn Thanh vào cuối thế kỷ 18 do Hoàng Đế Quang Trung lãnh đạo.
Bài viết này đặc biệt chú trọng vào cuộc
chiến tranh chống lại quân Mông Cổ của nhà Trần. Nhà Trần có 4 điểm đặc biệt mà
không có triều đại nào có (trong lịch sử nước ta) :
A.
Vị vua đầu tiên của nhà Trần không phải là người
khai sáng triều đại nhà Trần và cũng không có niên hiệu Trần Thái Tổ : vị vua đầu
tiên của nhà Trần là Trần Cảnh được vợ là Lý Chiêu Hoàng (mới có 7 tuổi) nhường
ngôi , lên làm vua lúc mới có 8 tuổi và có niên hiệu là Trần Thái Tông.
B.
Nhà Trần có ngôi vị Thái Thượng
Hoàng, sử sách ghi : “ Mùa xuân năm Mậu
Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho con là Thái Tử Trần Hoảng, để dạy bảo mọi
việc về cách trị nước, và để phòng ngày sau anh em không tranh dành nhau. Triều
đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng
để cùng coi việc nước…” - Hết trích.
C.
Để chống lại quân giặc Mông Cổ
xâm lăng nước ta , vua Trần Nhân Tông triệu tập các bô lão tại điện Diên Hồng để
hỏi ý kiến ( xem Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, trang 138).
D.
Nhà Trần tổ chức Hải Quân rất có quy củ :
trang bị cho lực lượng Hải Quân rất hùng hậu và huấn luyện kỹ càng khiến lực lượng
Hải Quân trở thành mũi nhọn trong cuộc chiến chống quân xâm lăng Mông Cổ.
Ý kiến của người viết :
1)
Người khai sáng nhà Trần là Trần
Thủ Độ. Sử gia Trần Trọng Kim nhận xét về Trần Thủ Độ như sau : “ Thủ Độ thật là người gian ác đối với
nhà Lý, nhưng lại là một người đại công thần của nhà Trần. Một tay cáng đáng
bao nhiêu trọng sự, giúp Thái Tông bình định được giặc giã trong nước và chỉnh
đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam ta thời bấy giờ được cường thịnh, ngày sau
có thể chống cự với Mông Cổ, khỏi phải làm nô lệ những kẻ hùng cường
– Xem Việt Nam Sử Lược, trang 121 ”. Tôi gọi Trần Thủ Độ là người khai sáng nhà
Trần vì chính Trần Thủ Độ đã có âm mưu đoạt quyền cai trị từ Lý Huệ Tông khi
đem 2 người cháu của mình là Trần Liễu và Trần Cảnh lấy Thuận Thiên công chúa
và Chiêu Hoàng công chúa. Đến khi Lý Huệ Tông lập Chiêu Hoàng làm Thái Tử và
truyền ngôi cho con gái mới có 7 tuổi lên làm vua, thì cũng chính Trần Thủ Độ
làm áp lực ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi vua cho Trần Cảnh (mới có 8 tuổi).
Dùng động từ “ép” cũng hơi quá, chứ đối với một đứa trẻ con mới có 7 tuổi thì cần
gì phải “ép”, người lớn bảo gì thì phải nghe theo chứ biết gì mà cưỡng lại !
2)
Sách vở thì ghi là Trần Thái
Tông nhường ngôi cho con là Thái Tử Trần Hoảng, triều đình tôn xưng Trần Thái
Tôn lên làm Thái Thượng Hoàng (đầu tiên), nhưng theo tôi, thực tế Thái Thượng
Hoàng đầu tiên của nhà Trần chính là Thái Sư Trần Thủ Độ : vua Trần Thái Tông
lên ngôi lúc mới có 8 tuổi thì biết gì mà cai trị đất nước, mọi việc đều do Trần
Thủ Độ quyết đoán hết cả, vì vậy người viết bài này khẳng định Thái Sư Tể Tướng
Trần Thủ Độ chính là Thái Thượng Hoàng chứ còn ai vào đây nữa !!! Và cũng chính
Trần Thủ Độ ra chỉ thị các vua của nhà Trần về sau phải làm Thái Thượng Hoàng để
các vua vừa mới lên ngôi có thời gian “ tập sự ” việc cai trị đất nước.
3)
Trước khi có hội nghị Diên Hồng,
Trần Nhân Tông ngự thuyền ra sông Bình Than để hội các vương hầu bách quan lại
với mục đích bàn kế chống giữ ngăn chặn quân Mông Cổ xâm lăng nước ta. Hội nghị
Bình Than không đi tới đâu vì đại đa số các vương hầu và các tướng lãnh
không ai có ý kiến quyết chiến cả, ngay
cả 2 người em của Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông là Thượng Tướng Trần Quang
Khải (đang giữ chức Thái Sư Tể Tướng trong triều đình) và tướng Trần Nhật Duật
cũng không có ý kiến. Chỉ có tướng Trần Quốc Tuấn và tướng Trần Khánh Dư quyết
xin đem quân đi phòng giữ các nơi hiểm yếu
để ngăn không cho quân Mông Cổ sang nước Nam. Sau khi Thái Tử Thoát Hoan tiến
binh vào nước Nam, Trần Nhân Tông mới triệu tập các bô lão dân gian, hội tại điện Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên
đánh. Các bô lão đều đồng thanh nên đánh. Vua thấy dân gian một lòng như vậy,
cũng quyết ý kháng cự.
4)
Các sử gia ghi chép rằng “ … vì
tổ tiên nhà Trần làm nghề chài lưới nên nhà Trần thành lập và tổ chức Hải Quân
rất có quy củ… “. Sự ghi chép này chỉ đúng về “hiện tượng” mà không đúng về “bản
chất” vì trang bị và thành lập Hải Quân đòi hỏi nhiều tốn phí và đòi hỏi thời
gian lâu dài để đóng tàu cũng như huấn luyện các chiến sĩ. Năm 1257, tướng Ngột
Lương Hợp Thai từ Vân Nam kéo quân sang đánh nước ta (lúc này quân Mông Cổ chưa
chiếm được toàn thể nước Trung Hoa), vua Trần Thái Tông và Thái Sư Tể Tướng Trần
Thủ Độ chỉ định tướng Trần Quốc Tuấn đem quân lên mặt Bắc để chống giữ, Trần Quốc
Tuấn ít quân chống không nổi, lùi quân về Sơn Tây …(Việt Nam Sử Lược trang
127). Là một nhân tài kiệt xuất của nước ta, tướng Trần Quốc Tuấn nhận thấy
ngay ưu điểm ( quân Mông Cổ giỏi về kỵ binh và xạ tiễn) và khuyết điểm của quân
Mông Cổ (quân Mông Cổ không có Hải Quân) nên tướng Trần Quốc Tuấn chính là người
thành lập và tổ chức Hải Quân để đối phó với quân Mông Cổ.
Ở đây cũng cần nhắc qua sự liên hệ gia tộc
của tướng Trần Quốc Tuấn với vua Trần Thái Tôn và Thái Sư Trần Thủ Độ : sau 12
năm chung sống, Lý Chiêu Hoàng không có con nên Thái Sư Trần Thủ Độ bắt vợ của
Trần Liễu là Thuận Thiên công chúa (lúc ấy đang mang bầu có thai) làm vợ của Trần
Cảnh. Trần Liễu tức giận nổi loạn, nhưng bị Trần Thủ Độ bắt giữ, tuy nhiên Trần
Thủ Độ không giết Trần Liễu mà bảo Trần Liễu (điều này do người viết phỏng
đoán) : “ Tao là chú của mày và Trần Cảnh, tao không ghét bỏ gì mày cũng không
thiên vị gì Trần Cảnh, tao cướp vợ của mày không phải dành cho tao mà dành cho
Trần Cảnh vì ngôi vị nhà Trần đang cần có người nối dõi. Nếu Trần Cảnh có con
trai thì tao đâu có cần phải làm cái chuyện trái với luân thường đạo lý ấy làm
gì ”. Trần Liễu nghe và hiểu tình thế nên chịu về Hải Dương làm lãnh chúa, mặt
khác Trần Liễu không quên “bàn tay thép” của ông chú Trần Thủ Độ đã ra tay bức
tử nhạc phụ của mình là vua Lý Huệ Tông với câu nói nổi danh trong lịch sử :
“nhổ cỏ thì phải nhổ tận rễ”. Tướng Trần Quốc Tuấn là con trai của Trần Liễu
nên Trần Quốc Tuấn phải gọi Trần Thái Tông là chú và gọi Thái Sư Trần Thủ Độ là
ông chú (em của ông nội). Trần Thủ Độ quan tâm và để mắt tới con của Trần Liễu
nên ngay khi còn trẻ, tướng Trần Quốc Tuấn
đã được Thái Sư Trần Thủ Độ rèn luyện binh nghiệp để giữ trọng trách trong triều
đình. Sư phụ của tướng Trần Quốc Tuấn là tướng Lê Phụ Trần – người đã giúp Thái
Sư Trần Thủ Độ đánh dẹp giặc giã trong nước cũng như tổ chức lại quồng máy quân
đội cho nhà Trần (không biết tên thật của ông, nhưng do công lao của ông giúp
nhà Trần nên vua Trần Thái Tông đổi tên của ông thành tên Lê Phụ Trần).
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất vào ngày
20 tháng 8 năm 1300, thọ 70 tuổi , như vậy năm sinh của ông vào khoảng 1230. Vì
không biết rõ tuổi của An Sinh Vương Trần Liễu và Thuận Thiên công chúa nên tôi không chắc là tướng Trần Quốc
Tuấn có phải là con của Thuận Thiên công chúa hay không ? vì mãi đến năm 1236,
Thái Sư Trần Thủ Độ mới bắt Thuận Thiên công chúa qua làm Hoàng Hậu của vua Trần
Thái Tông. Năm 1257, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai kéo quân từ Vân Nam
sang đánh nước ta, nếu không có sự để tâm giúp đỡ của Thái Sư Trần Thủ Độ thì dễ
gì binh quyền được trao cho một người trẻ mới có 27 tuổi ? Tôi đoan chắc tướng
Trần Quốc Tuấn là người thành lập và huấn luyên Hải Quân thành đơn vị tinh nhuệ
vì Thái Sư Trần Thủ Độ trong nhiều năm đầu của nhà Trần phải lo bình định +
đánh dẹp các nội loạn trong nước, ông không có nhu cầu và tầm nhìn xa nên chưa có cơ hội để thành lập và tổ chức Hải
Quân.
Tôi trích một đoạn lời dặn của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn dạy bảo con cháu (vua Trần Anh Tôn ) : “ …Đại
để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh ; lấy đoản chống với
tràng, phép dùng binh thường vẫn
phải thế… – Hết trích “, để luận bàn tài thao lược của tướng Trần Quốc
Tuấn trong sự nghiệp bảo vệ giang san nước Việt của Ngài.
Năm 1284, Thái Tử Thoát Hoan kéo 50 vạn
binh sang đánh nước ta, nếu tính từ năm 1257 đến năm 1284, tướng Trần Quốc Tuấn
có tới 24 năm để thành lập, tổ chức và huấn luyện lực lượng Hải Quân. Khi nhà Tống bị bại trận, toàn thể
nước Trung Hoa bị quân Mông Cổ chiếm đóng, một số tướng lãnh và binh lính của
nhà Tống chạy sang nước ta xin đầu quân
để chống lại quân Mông Cổ (thí dụ tướng Triệu Trưng), dĩ nhiên tướng Trần Quốc
Tuấn đã phỏng vấn các tướng của nhà Tống để biết các kỹ thuật tấn công và hạ
thành của quân đội Mông Cổ. Theo ý kiến riêng của người viết, tướng Trần Quốc
Tuấn đã nhận định như sau :
1/ Xứ Mông Cổ có nhiều thảo nguyên và đồng
cỏ, nền văn minh vẫn còn trong giai đoạn du mục chưa có nền văn minh nông nghiệp
trồng trọt và chăn nuôi như Trung Hoa, cho nên lãnh đạo của người Mông Cổ bắt
buộc phải tiến chiếm nước Trung Hoa để có được lương thực và nhân sự thực hiện
mưu đồ bá chủ thế giới. Trường trận (ưu thế) của quân binh Mông Cổ là kỵ binh
và xạ tiễn, cho nên môi trường phát huy tối đa khả năng tác chiến của kỵ binh
là đồng bằng. Các nhà chiến lược quân sự của Trung Hoa đời nhà Tống đã sai lầm
khi tuyển chọn nông dân Trung Hoa thành lập kỵ binh để chống với quân Mông Cổ :
không thể nào binh lính Trung Hoa lại có thể cỡi ngựa và bắn tên giỏi như binh
lính Mông Cổ, đó là chưa kể các sĩ quan chỉ huy kỵ binh của nhà Tống chưa rành
rẽ cách dàn binh và thay đổi đội hình tấn công của kỵ binh Mông Cổ.
2/ Nước Trung Hoa đã có những “Trung Tâm
Kinh Tế ” quan trọng, cho nên khi những Trung Tâm Kinh Tế này bị bao vây và triệt
hạ, triều đình nhà Tống không thể cứu giá và giải vây cho các Trung Tâm Kinh Tế
này được (vì kỵ binh Mông Cổ di chuyển nhanh hơn bộ binh Trung Hoa) cho nên
quân đội nhà Tống đông hơn quân Mông Cổ nhưng luôn bị đặt trong tình trạng
phòng vệ chứ không thể phản công đánh vào hậu phương của quân địch.
3/ Xứ Mông Cổ nằm sâu trong nội địa, tuyệt
nhiên không thể có Hải quân, tất cả lực lượng Hải Quân kéo sang đánh nước ta,
lãnh đạo của Mông Cổ đều sử dụng phương tiện và nhân sự của nhà Tống, cho nên đạo
quân thứ hai (kỳ binh) gồm 10 vạn quân do Toa Đô chỉ huy , đi đường biển tấn
công mặt phía nam của nước ta ( vùng Quảng Bình – Hà Tĩnh – Nghệ An) đều phải sử
dụng “hải vận hạm” (tàu chuyên chở người và ngựa). Suy ra cánh quân của Toa Đô
không có chiến thuyền.
Tướng Trần Quốc Tuấn đã sử dụng “đoản binh”
như thế nào để chống lại “tràng trận” của quân Mông Cổ do Thái Tử Thoát Hoan chỉ
huy :
1/ Địa hình địa thế của nước ta từ Lạng Sơn
về tới Thăng Long là vùng núi non hiểm trở, tướng Trần Quốc Tuấn thành lập chuỗi
đồn lũy “Sa, Từ, Trúc” theo hàng dọc để làm giảm nhuệ khí của quân Mông Cổ, mục
đích chính là ngăn chận không cho kỵ binh Mông Cổ tỏa rộng tiến chiếm các nơi
khác. Tất cả các nơi hiểm yếu mà tướng
Trần Quốc Tuấn bày binh bố trận đều là những nơi mà bây giờ chúng ta gọi là “căn cứ thủy bộ” ,
thí dụ tướng Trần Bình Trọng trấn giữ tại sông Bình Than (chỗ sông Đuống nối với
sông Thái Bình, bây giờ thuộc huyện Gia Bình – Bắc Ninh), tướng Trần Khánh Dư
trấn giữ mặt Vân Đồn ( thuộc Vân Hải – tỉnh Quảng Yên), ngay chính tướng Trần
Quốc Tuấn cũng đặt căn cứ chỉ huy tại Vạn Kiếp tức là làng Kiếp Bạc thuộc tỉnh
Hải Dương.
2/ Xứ ta không có những Trung Tâm Kinh Tế
như vùng Tây Bắc Trung Hoa, cơ cấu làng xã là đơn vị kinh tế nông nghiệp tự túc của dân
Việt Nam, cho nên quân Mông Cổ có bao vây các làng xã này để thu gom lương thực
nuôi quân thì cũng chả làm được , vì chung quanh làng là lũy tre xanh – là hàng
rào thiên nhiên mà kỵ binh Mông Cổ không thể vượt qua được . Đồng bằng Bắc Việt
là nơi dân ta trồng lúa nước, cho nên kỵ binh Mông Cổ không thể thi thố khả
năng di chuyển nhanh như đã tấn công nhà Tống (ngựa mà xuống ruộng sình lầy thì
thà đi bộ còn nhanh hơn). Xứ ta cũng không có thảo nguyên đồng cỏ cho nên lương
thực cho binh sĩ và cỏ cho ngựa đều phải vận chuyển từ Trung Hoa sang. Tướng Trần
Quốc Tuấn chỉ cần ngăn chận các đường tiếp liệu này thì đương nhiên đạo quân của
Thoát Hoan phải rút về nước .
3/ Để khống chế khả năng xạ tiễn của kỵ
binh Mông Cổ, bộ binh của tướng Trần Quốc Tuấn luôn luôn ở vị thế cao như trên
núi bắn xuống, chứ không mặt đối mặt giao chiến với quân Mông Cổ (tướng Toa Đô
tử trận vì trúng tên từ trên núi bắn xuống tại mặt trận Tây Kết – thuộc phủ
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Tướng Trần Quốc Tuấn trang bị “bút chì” và “câu
liêm” cho bộ binh để làm thương tật các chiến mã của kỵ binh Mông Cổ (lính kỵ
binh Mông Cổ không có ngựa cỡi, phải đi bộ thì đương nhiên khả năng tác chiến
chỉ còn 45% -50% là cùng)
Chú thích của người viết : Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm VANG BÓNG MỘT THỜI đã mô tả
binh khí “bút chì” chỉ là cái mai của nông dân có cột một sợi dây dài, còn đầu
kia của sợi dây thì cột vào cổ tay của người sử dụng, khi ném “bút chì” đầu kim
loại của cái mai sẽ chạm mục tiêu, còn sợi dây để người sử dụng thu hồi vũ khí.
4/Xứ Mông Cổ và Trung Hoa không có voi, cho
nên tướng Trần Quốc Tuấn chỉ sử dụng voi trong các trận phản công mang tính chất
quyết định : ngựa khi xung trận thấy voi xuất hiện thì đương nhiên chạy tán loạn,
người lính không thể điều khiển con ngựa theo ý muốn được, vì vậy đội hình chiến
đấu của kỵ binh bị phá vỡ. Còn bộ binh Mông Cổ cũng vậy : cả đời chưa bao giờ
thấy voi, nay thấy voi xông vào hàng ngũ thì bộ binh cũng bỏ chạy như ngựa đã bỏ
chạy vậy thôi.
Chú thích của người viết : Hai Bà Trưng cỡi voi đánh Thái Thú Tô Định để trả thù cho chồng
là Thi Sách bị Tô Định giết chết. Quan lớn Tô Định và lính trángTrung Hoa bỏ chạy vì cả đời chưa bao giờ thấy voi, vì vậy
Hai Bà Trưng chiếm được 65 thành trì chỉ trong một thời gian ngắn. Năm 1789, khi điểm binh tại đèo Tam
Điệp, sử sách ghi quân đội của Quang Trung Hoàng Đế có 100 thớt voi. Chính
Quang Trung Hoàng Đế sử dụng 100 thớt voi này để phá tan đạo quân 20 vạn quân của
vua Càn Long, khiến nguyên soái Tôn Sĩ Nghị
phải vội vàng lên ngựa bỏ chạy không kịp mang ấn tín và thư từ riêng của vua
Càn Long dặn dò ( tôi đoán nguyên soái
Tôn Sĩ Nghị khi bỏ chạy chỉ mặc đồ lót, chứ không kịp đóng bộ võ phục của
một ông tướng tư lệnh đạo quân viễn chinh)
5/ Khi quân Mông Cổ mới sang nước ta, khí
thế còn mạnh , đã đánh thắng quân ta vài trận trong đó có trận ở Thiên Trường _
Nam Định, tướng Trần Bình Trọng bị bắt và bị giết…tướng Trần Quốc Tuấn cho lui
binh về Vạn Kiếp và tập họp tất cả các lực lượng của các tướng khác, tổng cộng
được 20 vạn binh. Chính tại nơi này và vào thời điểm này, tướng Trần Quốc Tuấn
viết bài Hịch Tướng Sĩ để động viên quân đội và soạn quyển Binh Thư Yếu Lược để
các tướng sĩ luyện tập : tinh thần tướng sĩ đã lên cao trở lại. Tháng chạp năm
1284, khí hậu nước ta gần giống với miền Nam Trung Hoa nên quân Mông Cổ vẫn còn
cảm thấy dễ chịu, nhưng 6 tháng sau, khí hậu chuyển sang mùa hè nóng bức và có
mưa nên binh lính Mông Cổ cảm thấy khó chịu và bắt đầu bị nhuốm các bệnh thời
khí, đây chính là lúc tướng Trần Quốc Tuấn mở các trận đánh phản công để đuổi
quân Mông Cổ ra khỏi nước ta.
Tôi bỏ qua không nêu chi tiết các trận đánh
trong cuộc chiến chống quân xâm lược Mông Cổ của nhà Trần vì các sử gia và các
sách nghiên cứu về Lịch Sử đã trình bầy đầy đủ rồi. Tôi chỉ trình bày thêm về chiến thắng Bạch Đằng Giang và phương cách đối
xử của vua Trần Nhân Tông với riêng cá nhân tướng Ô Mã Nhi mà thôi.
1/ Về chiến thắng
Bạch Đằng Giang : tướng Trần Quốc Tuấn biết chắc chắn quân Mông Cổ phải rút
quân về nước vì tổn thất quá nặng về mặt nhân lực mà không chiếm giữ được Trung
Tâm Kinh Tế nào cả nên không có lương thực để nuôi quân nuôi ngựa, nhất là sau
chiến thắng Vân Đồn của tướng Trần Khánh Dư : 300 thuyền tải lương của Trương
Văn Hổ bị quân của Trần Khánh Dư cướp phá, lại tịch thu được nhiều vũ khí chở
sang để bổ sung. Tướng Trần Quốc Tuấn chuẩn bị trận chiến này để triệt tiêu tiềm
lực xâm lăng lần nữa của quân Mông Cổ chứ không phải là trận chiến nhằm ngăn chận
bước tiến của quân Mông Cổ như nhiều người lầm tưởng. Trận Bạch Đằng Giang xảy ra vào tháng ba năm Mậu
Tý (1288) lấy được chiến thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được rất
nhiều quân sĩ (không kể các binh sĩ tử trận mà máu đã loang đỏ cả khúc sông). Các tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích
Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt. Khác với cuộc rút quân lần trước, Thái Tử Thoát Hoan
cho đại binh rút theo đường biển vừa nhanh, vừa
chuyên chở được nhiều binh sĩ hơn vừa an toàn hơn ( cuộc rút quân lần
trước , Thoát Hoan chỉ rút qua ngả đường bộ, không có cuộc rút quân theo đường
biển, nên bị quân dân nhà Trần truy đuổi ráo riết, chính Thoát Hoan phải trốn
trong ống đồng để tránh tên và về tới châu Tư Minh mới dám bước ra ngoài ).
Sử gia Trần Trọng
Kim ghi rằng Hưng Đạo Vương sai tướng Nguyễn Khoái lập trận phục kích thủy
quân Mông Cổ ở sông Bạch Đằng vào năm
1288 trước trận chiến Bạch Đằng Giang một thời gian ngắn(VNSL trang 156), nhưng
Thủy Sư Đô Đốc Togo – người chỉ huy Hạm Đội Nhật Bản chiến thắng Hạm Đội Viễn
Đông của Sa Hoàng Nicolas II hồi năm 1905 tại eo biển Đối Mã , trong thời gian ông làm Chỉ Huy Trưởng Trường
Sĩ Quan Hải Quân Hoàng Gia Nhật có nghiên cứu trận Bạch Đằng lại cho rằng : tướng
Trần Quốc Tuấn đã chuẩn bị cho chiến trường Bạch Đằng Giang rất lâu vì với
phương tiện cơ giới hiện đại của Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20, bản thân tướng
Togo và quân đội Nhật Bản cũng không thể thực hiện nổi một công trình như vậy
(nên nhớ , trường Sĩ Quan Hải Quân Hoàng Gia Nhật có sưu tập được một số cọc gỗ
vót nhọn đầu bịt sắt lấy từ sông Bạch Đằng). Mặt khác, đây là cuộc rút quân lớn
của quân Mông Cổ (quân nhà Trần bắt được hơn 400 chiến thuyền) nên về mặt an
ninh , tướng Ô Mã Nhi không thể không biết đến những chuyển động của quân lính
tướng Nguyễn Khoái, tướng Ô Mã Nhi mà đã biết tướng Trần Quốc Tuấn bày trận phục
kích thì không bao giờ thủy quân của Mông Cổ lại lọt bẫy phục kích để rồi hoàn
toàn bị đại bại.
2/Tháng hai năm
1289, vua Trần Nhân Tông ra lệnh các quan ta chuẩn bị trao trả tù binh cho nhà
Nguyên (VNSL trang 159). Trích dẫn : “Duy
chỉ có Ô Mã Nhi giết hại nhiều người, vua căm tức vô cùng, không muốn tha về,
nhưng lại ngại đường hòa hiếu, bèn dùng mưu của Hưng Đạo Vương, sai người đưa
đi đến giữa bể, đánh đắm thuyền, cho chết
đuối, mà Nguyên triều cũng không trách vào đâu được.Về sau, vua Dực Tông triều
Nguyễn (tức là vua Tự Đức) xem đến chỗ này, có phê 4 chữ “bất nhân phi nghĩa”. Tưởng
lời phê ấy cũng là chính đáng.- Hết trích. VNSL trang 159 “.
Theo ý kiến
riêng của người viết, sự thực không hẳn giống như sách vở đã ghi bởi vì nhóm chữ
giết hại nhiều người có tính cách mơ
hồ quá. Sự thực, trong chiến tranh chỉ có 2 động từ “giết và bị giết”, cho nên
các tướng lãnh khác của Mông Cổ có thể sát hại quân ta nhiều hơn tướng Ô Mã Nhi
, nhưng tướng Ô Mã Nhi bị tướng Trần Quốc Tuấn chọn phải giết vì khả năng khá
rành rẽ đường đi nước bước của Hải Quân nhà Trần cũng như rành rẽ các địa thế của
các cửa biển của nước ta. Chúng ta nhìn lại quá trình hoạt động của tướng Ô Mã
Nhi : ông cùng với tướng Toa Đô đi theo
đường biển tấn công vào mặt phía Nam của nước ta, sau trận Tây Kết do chính tướng
Trần Quốc Tuấn chỉ huy , tướng Toa Đô tử trận, còn tướng Ô Mã Nhi phải nhảy lên
một chiếc thuyền nhỏ trốn về Tàu (VNSL trang 149).
Khi Thái Tử
Thoát Hoan tiến đánh nước ta lần thứ hai, chính tướng Ô Mã Nhi được chỉ định “dọn
bãi” cho 300 chiếc thuyền tải lương của tướng Trương Văn Hổ, chính tướng Ô Mã
Nhi đã đánh bại tướng Trần Khánh Dư tại bến Vân Đồn, nhưng vì đánh thắng nên tự
kiêu tiến quá sâu vào nội địa, lại gặp tướng Trần khánh Dư là người quyết chiến
(tướng Trần Khánh Dư và tướng Trần Quốc Tuấn là 2 người duy nhất bỏ phiếu quyết
chiến tại hội nghị Bình Than do vua Trần Nhân Tông triệu tập) nên tướng Ô Mã
Nhi không hoàn thành nhiệm vụ, đã để mất 300 chiếc thuyền tải lương khiến đạo
quân viễn chinh phải tìm đường rút lui.
Trong trận Bạch
Đằng, tướng Ô Mã Nhi cũng là tướng tổng chỉ huy của binh đội Mông Cổ rút về nước
theo đường biển. Sau cuộc lui binh năm
1288, không có gì bảo đảm rằng vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt sẽ ngưng vĩnh viễn
không xâm lăng nước ta nữa, nếu quân nhà Nguyên xuất quân lần nữa chắc chắn cơ
hội chiến thắng quân Mông Cổ bằng Hải Quân của nước ta sẽ rất mỏng manh vì Ô Mã
Nhi còn sống, ông ta đem kinh nghiệm và hiểu biết của ông để khắc chế sở trường
của quân đội nhà Trần. Theo tôi, đó là lý do tướng Trần Quốc Tuấn yêu cầu vua Trần Nhân Tông ra quyết định giết
bỏ tướng Ô Mã Nhi.
Là một vì vua
sáng suốt, mặc dù thấm nhuần Phật pháp (vua Trần Nhân Tông là tổ sư môn phái
Thiền Trúc Lâm) vua Trần Nhân Tông đã cân nhắc kỹ lưỡng quyết định hệ trọng của
ông và ông chấp thuận lời yêu cầu của tướng Trần Quốc Tuấn vì quyết định này đã
đem lại sự toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam và đem lại thái bình thật sự
cho toàn thể nhân dân nước Việt.
Lịch sử bao gồm
nhiều sự kiện lập lại, nhưng không lập lại y hệt, tiếc thay tướng Dương Văn
Minh nghe theo lời của các nhà sư Khối Ấn Quang quyết định đầu hàng Việt Cộng
chỉ để được tiếng là người mang lại Hòa Bình cho miền Nam Việt Nam bất kể đến sự
an nguy và hạnh phúc của 17 triệu người dân miền Nam và khổ nỗi Hòa Bình của tướng
Dương Văn Minh chỉ là hòa bình trong ô nhục. Khi ông Dương Văn Minh vui mừng
tuyên bố được làm công dân nước CHXHCN để được đi bầu “bỏ phiếu” , tôi chợt
nghĩ đến lời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố vào năm 1968 tại Lưỡng Viện
Quốc Hội VNCH : “…thà rằng chúng ta chết
bây giờ để con cháu chúng ta được sống..” .
Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu chưa phải là người lãnh đạo toàn bích, nhưng những lời nói khí khái của
ông cùng những sự kiện đã được giải mật, khiến cho Lễ Giỗ của ông vào năm 2013
được rất nhiều người tham dự (trong đó dĩ nhiên có cả những người trước đó đã đả
kích ông). Trong khi đó, tro cốt của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ không có chùa
nào ở Nam Cali dám nhận, sau cùng gia đình phải để tro cốt của ông Kỳ ở một chùa
của người Trung Hoa trong vùng Los Angeles County. Và cũng chẳng có ai nhớ đến
ngày giỗ của tướng Dương Văn Minh để mà tham dự.
San José, ngày
24 tháng 11 năm 2013
Trần Trung Chính