Monday 9 December 2013

Cảm nhận Ðinh Hùng - Phạm Thế Định


Trong lãnh vực  thưởng thức thơ, có dạo  tôi bị chao đảo giữa hai khuynh hướng:

 Khuynh  hướng thứ  nhất là  đọc thơ  với sự  giúp đỡ  của lý  trí, dùng  đầu óc  phân tích  để tìm hiểu  cặn  kẽ  ý  nghĩa,  nguồn  cội, hoàn cảnh của từng  tứ thơ,  tức là  những ý  tưởng, những  kỹ thuật  xây dựng  hình  tượng,  những xúc  cảm khởi thủy,  sự biến  đổi theo  từng câu  thơ, lý do để tác giả  có những cảm  xúc đó... và  hơn nữa mượn nhạc thuật,  kiến thức trong  ngành ngôn ngữ  học hay âm học để  tìm hiểu cái hay, cái dở của tính nhạc của  một câu  thơ .Sau  đó dùng  phép tổng hợp để nối kết tất cả những  phân tích đó thành một hệ thống  hầu có  thể trình   bày rõ  ràng và  hợp lý những nhận định đã tìm ra bởi sự phân tích.

Khuynh  hướng thứ  hai để  sự nhận  thức chủ  quan điều khiển, đọc một bài  thơ thấy hay, thấy đẹp, thấy xúc cảm là hay, không cần chẻ sợi tóc làm tư, làm tám, yêu là yêu theo như Xuân Diệu đã viết

"Nào ai phân tích một mùi hương  ..."
 (ghi  theo trí nhớ)

Thơ  Ðinh Hùng  đã đến  với tôi  bằng con  đường thứ  hai. Tôi  yêu thơ  Ðinh Hùng  dưới tác dụng của một tiếng  sét ái tình.  Sức quyến rũ  tàn bạo của cái  đẹp, cái  lạ đến  một cách  đột ngột, sững sờ  vào tuổi  thiếu niên.  Dù rằng  tôi cũng  thích những bài học  về thơ Việt Nam ở  trường, hay một số  đoạn  thơ  trích    sách  giáo khoa. Chẳng hạn, những bài thơ thất ngôn bát cú của Lê Thánh Tôn với

"Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói sương
 Miễu ai như miễu vợ chàng Trương ..."

Hay Chinh Phụ Ngâm với

"Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
 Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
 Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
 Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền ..."

Tuy  nhiên, những  câu thơ  loại đó,  hay thì hay đấy nhưng quá cổ,  quá xa, tên thiếu niên  12-13 tuổi như tôi  lại  thích  tìm  đọc  những  bài  thơ tình tiền chiến của Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu...hơn 

Thú quá đi những câu  thơ mang đầy hương đồng gió nội, đọc  vào là hiểu  ngay, là rung  ngay tiếng lòng đơn sơ tình tứ

"Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn Ðông
 Một người chín nhớ mười mong một người
 Gió mưa là bệnh của trời
 Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng ..."

("Tương tư",  Nguyễn Bính)

Hay sao là hay nét  lãng mạn với lối dùng chữ Tây phương mà lòng lại rất Ðông phương như Xuân Diệu

"Cây cỏ bình yên, khuya tĩnh mịch
 Bỗng đâu lên khúc Lạc-âm-thiều...
 Nhị hồ để bốc niềm cô tịch
 Không khóc mà sao buồn hiu hiu..."
(Nhị Hồ)

Hồn tôi như được mở rộng để đón nhận nỗi buồn muôn thưở của các thi nhân đứng trước cảnh trường giang sóng vỗ, ngắm con thuyền xuôi, cành củi lạc:

"Sóng bủa tràng giang buồn điệp điệp
 Con thuyền xuôi mái nước song song
 Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
 Củi một cành khô lạc mấy giòng"
 ("Tràng Giang", Huy Cận)

Vào  những năm  đầu thập niên  60, những  thú tiêu khiển tinh thần chưa có nhiều như  sau này, tủ sách nhà tôi thì nhỏ,  quanh quẩn mãi  với mấy cuốn  truyện tàu, kiếm hiệp loại ba xu,  mấy tập truyện ngắn  của Tự Lực Văn Ðoàn. Một hôm tôi tự  nhiên mượn được một tập báo  Phổ Thông  đóng bộ.  Tôi tìm  thấy trong những số báo  này một đam mê  văn học, có nhiều  bài văn của ông Nguyễn  Vỹ tôi không yêu lắm,  nhưng cái tâm hồn yêu văn  chương của ông ấy thì  tác động mạnh trong tôi. Tờ  Phổ Thông lúc đó có  đăng những bài thơ hay, hiện đại hoặc tiền chiến. Hình như là tôi đã đọc  bài thơ đầu  tiên của Ðinh  Hùng trong tập này thì phải, đó là bài "Gửi người dưới mộ".

SàiGòn đâu có  mùa thu rõ rệt như  ở Âu Châu, đâu có những con đường ngập đầy lá vàng khô trong cơn gió  Bắc  cuốn  đi  những  kỷ  niệm của năm tháng, những chiếc lá chết như trong thơ Jacques Prevert. Thế mà những  giòng đầu của  bài thơ Ðinh  Hùng đã kéo tôi  ngay vào không khí  của một  ngày cuối thu lạnh. Tôi run theo tiếng thủ thỉ của thi sĩ với âm hồn của mỹ nhân

"Trời cuối thu rồi em ở đâu
 Nằm bên đất lạnh chắc em sầu
 Thu ơi đánh thức hồn ma dậy
 Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu "

Thưở đó  tôi nào đã đọc  Baudelaire để mượn cái dòng  thơ tượng  trưng của  Fleurs du  Mal (Ác  Hoa), hay không  khí  của  truyện  "Những chuyện  lạ lùng" (Histoires extraordinaires)*  của Edgar Poe để  cảm thơ Ðinh Hùng. Tôi  cảm nhận trực  tiếp những giòng  thơ đó không cần sử dụng từ điển hay sách giáo khoa.

Những lời  nói mà Ðinh  Hùng sử dụng  để nói với thu, để  gọi một hồn ma,  đã có khả năng  làm hồn tôi tách ra  khỏi xác tôi trong một  khoảng khắc thời gian  nào đó,  vượt ra  cái vật  chất để nhìn về nó, vượt lên  trên cái thực mà vẫn  sống với cái thực

"Em đã về chưa ?
 Em sắp về chưa ?
Trăng sao tắt ngọn đèn mờ
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn ..."

Cái sống và  cái chết thoắt một cái về  thành bạn với nhau,  thần  chết  không  còn  nằm  ở một cõi không đụng được, mà đến gần dương thế hơn

"Thần chết cười trong bộ ngực điên
 Ta nghe em kể tiếng ưu phiền
 Nỗi lòng xưa dậy tan Thanh Vắng
 Hơi đất mê người - Trăng hiện lên"

Tôi  đã bị  nhập vào  thế giới  của Mê  Hồn Ca mà không  hiểu tại  sao. Sau  này mới  biết Ðinh Hùng có những lời thơ trên có lẽ  vì chúng đã tả một mối tình thật của ông. Theo lời Mai Thảo, thưở trẻ, Ðinh Hùng đã phải đi làm cậu giáo kèm học tư gia cho một ông quan huyện  tỉnh Thái Bình, Ðinh Hùng  gặp gỡ và yêu  cô học  trò tên  Liên, là  con gái  của ông  quan huyện. Cô này chết trẻ. Ðinh Hùng đau đớn lắm, có dạo đi  đâu cũng mang  theo di ảnh  của cô Liên,  nhưng không cho ai coi. Ðêm đêm ông quanh quẩn nơi ngôi nhà ở gần đê Yên Phụ, nơi  cô Liên đã chết. Có đêm, ông đã chỉ uống nước lã và nằm ngủ ngoài đường để được gần gũi nơi  mà người yêu đã trút linh hồn.

Có lẽ vì  đã sống thực một cách  lạ lùng như vậy mà lời  thơ Ðinh Hùng  mới có một  sức mạnh tuyệt diệu,  như thơ  Hàn Mạc  Tử, kéo  độc giả vào một thế giới  khác. Trong không  khí của tập  Mê Hồn Ca, đó là một thế giới siêu thực., tôi muốn nói một thế  giới mà  cảnh thực  được xen kẽ với  những hình ảnh của thế giới mộng và vô thức.


Sau  khi đã  yêu bài  thơ trên,  tôi dần  chú ý đến những bài văn thơ, cũng như chương trình Tao Ðàn của Ðinh  Hùng. Tôi  đã đọc  "Kỳ nữ  gò Ôn  Khâu", một chuyện dã  sử của ông,  dưới bút hiệu  Hoài Ðiệp Thứ Lang và tôi không cho  đó là một tác phẩm lớn. Chương  trình thơ  Tao Ðàn  đã đưa  tiếng thơ  tới với mọi người yêu thơ miền Nam, một cách thực sự phục vụ nghệ thuật. Khác  hẳn thơ miền Bắc đã bị ông Hồ đem thép cho vào. Những bài thơ hay của nhiều thi sĩ nổi danh trước và  sau 1954 như Nguyễn Bính, Du Tử  Lê,  Nguyên  Sa...  đã  được  gửi  qua làn sóng điện một tuần ba lần, mỗi tuần 45 phút. Giọng nói ngân nga, nghệ  sĩ, rất "thơ" của Ðinh  Hùng vẫn còn sâu đậm trong  tôi "Ðây Tao Ðàn, tiếng  nói của thơ văn  miền Tự  Do, do   Ðinh Hùng  phụ trách,  với các giọng  ngâm của  Hồ  Ðiệp,  Hoàng Thư,  Quách Ðàm... tiếng sáo Nguyễn Ðình Nghĩa ...". Vậy thì nguyên soái thi ca  miền Nam trong những  năm đó đã là  Ðinh Hùng rồi.

Ðến  khoảng đầu  năm 1971,  tôi mua  được tại  nhà sách Khai Trí hai tập thơ  của Ðinh Hùng, với hết cả tiền  còn có  trước khi  rời đất  nước. Tôi  đã cắn  răng chọn  lựa    phải từ  khước những  tác phẩm khác. Nhưng không thể quyết định khác hơn.

Tập  Mê Hồn  Ca thật  ra đã  được xuất  bản lần đầu ở  Hà Nội, sau  này nhà Khai  Trí tái bản  lại. Hình bìa  của tập thơ  này và của  tập thơ thứ hai "Ðường vào tình sử" đều do Ðinh Hùng vẽ.
Bài thơ vào đầu "Bài ca  man rợ" đã cho tôi cái cảm nhận khác  biệt với các  giòng thơ tiền  chiến cũ, Ðinh Hùng không  đi vào dấu đại lộ  của những đàn anh thi sĩ mà Hoài Thanh đã hết lòng xưng tụng. Tiếng thơ  Ðinh  Hùng  mới  quá  nên  Hoài  Thanh không hiểu chăng, mà chỉ xếp ông vào  nhóm thi sĩ ngồi bàn nhì, bàn ba  chung quanh Xuân Diệu  - Huy Cận. Tôi  lại thấy thơ Ðinh Hùng không những  chỉ hay, mà còn độc đáo, ông  lên tiếng  kết án  nền văn  minh đô  thị, với những  xa hoa,  phù phiếm  đã giết  chết mất những tình cảm hồn nhiên.

"Lòng đã khác ta trở về đô thị
 Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa
 Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ
 Và chân bước nghe chuyển rung đồi núi ...
 Lòng lạ lùng tìm ảnh với tìm hương,
 Nhưng lẫn lộn chỉ thấy màu xiêm áọ
 Trán thì phẳng-ôi đâu là kiêu ngạo
 Ðâu hồn nhiên trên nét vẽ râu mày "

Ông  có thể  đã là  nhà thơ  ecologist (truờng phái môi sinh)  đầu tiên của Việt Nam, muốn trở về  bảo vệ thiên nhiên, ông hung bạo với cuộc sống đô thị, máy móc.

 "Em còn trái tim nào đang xúc động
 Em còn gì, trong xác thịt như hoa
 Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà,
 Với những kẻ dung nhan kiều diễm nhất
 Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất,
 Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly.
 Rồi dầy xéo lên sông núi đô kỳ,
 Bên thành quách ta ra tay tàn phá...."

Nhưng  Ðinh Hùng  còn muốn   đi xa  hơn nữa  về một thời  gian thăm  thẳm trong thưở hồng  hoang của nhân loại, nơi những dấu tích của nền văn minh con người không có mặt

"Khi Miếu Ðường kia phá bỏ rồi
 Ta đi về những hướng sao rơi
 Lạc loài theo dấu chân cầm thú
 Từng vệt sương sa mọc khắp người
 .Ta đến sườn non rẽ cỏ gai
 Sống đây ghi trước mảnh hình hài
 Lẫn trong kiến trúc tòa vân thạch,
 Hồn cổ ngồi chung mộng vắn dài.
 Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ,
 Ta nằm trên cỏ lắng tai nghe ...
 Thèm ăn một chút hoa man dại,
 Rồi ngủ  như loài muông thú  kia."
 ("Những hướng sao rơi")

 Khi  đã  sống  với  thiên  nhiên,  bỏ mặc những quan niệm gò bó của kiếp sống văn minh đô thị, tình yêu mới có thể được diễn tả đến tuyệt mức của nó

"Những buổi đó ta nhìn em kinh ngạc
 Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
 Ôi mắt xa khơi ! Ôi mặt dị kỳ !
 Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
 Thấy cả bóng một vừng đông thưở trước
 Cả con đường sao mọc lúc ta đi
 Cả chiều sương mây phủ lúc ta về,
 Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ"

Người  thơ  đã  vượt  ra  khỏi  cái thế giới bình thường để đắm đuối trước tình yêu

"Ta run sợ cho yêu là mệnh số
 Mặc tay em định hộ kiếp ngày sau.
 Vì người em có bao phép nhiệm mầu
 Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc
 Ta đặt em trên ngai thờ Nữ Sắc
 Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da.
 Buổi em về, xác thịt tẩm hương hoa
 Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết..." ("Kỳ Nữ")

Ðinh Hùng là  người sống dâng hiến tất  cả cho tâm hồn  mình, cho  tiếng thơ  của mình,  không chịu  phục tòng  tiếng nói  của xã   hội lúc  bấy giờ  là giai đoạn kháng  chiến. Ðến nỗi vào  năm 1947, Ðinh Hùng khoảng 26  tuổi và cùng  Vũ Hoàng Chương  tham gia Hội Văn Nghệ  Liên Khu Ba, thế  mà ông ta đã  không biết lá  cờ đỏ  sao vàng  là lá  cờ của  đảng Cộng Sản Việt Nam. Một sáng đi dạo phố Chợ Ðại Cống Thần, tình cờ nhìn  thấy lá  cờ đó  phất phới trên kỳ đài,  Ðinh Hùng  sửng sốt  hỏi "Cờ  của nước  nào thế  kia?". Ði  kháng chiến  mà hai  ông nhà  thơ vẫn quần lượt áo là, và có cả tiểu đồng đi theo bưng bàn đèn thuốc phiện. Nhưng theo Phạm Duy thì lúc đó, có tới 90% các văn nghệ  sĩ vào lớp tuổi đó hoặc già hơn,  mắc vào tật  hút thuốc phiện,  riêng Ðinh Hùng thì nghiện nặng, và không giấu diếm chuyện hút của mình.
Giai đoạn này  thơ của Ðinh Hùng nói  lên sự lạc loài kinh rợn, có lẽ đó là  tiếng cô đơn của con người thơ trước một cận ảnh xáo động. 

"Trăng ơi ! Ðừng bỏ kinh thành!
 Hồn cố đô vẫn yên bình như xưa.
 Nhỡn tiền chợt sáng thiên cơ.
 Biết chăng ảo phố mê đồ là đâu?"
 ("Sông núi giao thần")

 "Hãy ra sa mạc, cõi Thơ Vàng
 Vào trận cuồng phong, loạn hỗn mang
 Nghìn lá cờ ma sầu địa chấn.
 Hát lên, ôi dòng máu Bình Vương !"
 "Bộ lạc ta xưa mất hải tần
 Buồn nghiêng nội địa cháy tà luân
 Ðêm thiêng thổn thức hồn du mục
 Ta vọng lên non tiếng ác thần"
 ("Lạc Hồn Ca")

 Thơ Ðinh Hùng lúc đó đầy những hình ảnh hỗn độn của bóng dáng thanh bình kề bên bạo chúa

"Thời đại Hoàng Kim sắp phục hồi
 Ta mừng Bạo Chúa sắp lên ngôi ..."

Có lẽ  vì lý do đó  mà có người đã  cho rằng trong thơ  Ðinh  Hùng có ẩn  tính  tiên  tri.  Lời thơ đã báo những biến động xã hội  sắp xẩy ra, và những tư tưởng nhân  bản bị đe  dọa bởi chiến  tranh và một nền văn minh vật chất quá độ.

Căn nhà  cổ mà Ðinh Hùng  sống ở cửa Ô  cầu Rền là nơi  ông đã đốt  đời với thuốc  phiện, cộng thêm những đêm  trác táng với men rượu  và ả đào. Dạo đó  có một số thi  sĩ trẻ ái mộ  thơ của Ðinh Hùng,  trong đó  có hai  người sau  này trở  nên nổi tiếng nhờ  tính khảng khái,  và thành thật  của mình là Trần Dần,  và Phùng Quán. Vào năm  1988, trong một buổi đối  thoại tại Bến  Ngự, Trần Dần,  tác giả những câu  thơ nổi tiếng "Tôi đi không  thấy phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ" đã công khai nói rằng "Tiền  chiến Việt Nam tôi thích Vũ Hoàng Chương, Ðinh  Hùng và  Vũ Trọng  Phụng, vớt vát thêm thì còn  Thạch Lam ...". Hoàng Phủ  Ngọc Tường có vẻ không hài lòng, ông ta  lên tiếng"Cho phép tôi quay lại trước  một chút. Tôi  e rằng anh  đánh giá Ðinh Hùng hơi quá, ngoại trừ việc thích hoặc không thích. Tôi có  dịp đọc Ðinh  Hùng khá nhiều,  tôi thấy văn chương ông  ta lòe loẹt ,  có cái gì ghê  ghê, như là son phấn. Nếu tôi nhớ  không nhầm, thì ngay trong "Thi nhân  Việt  Nam",  Hoài  Thanh  cũng  chỉ xếp Ðinh Hùng ngồi    "chiếu  ba"  trong  làng  văn lúc đó". Trần Dần, cán bộ Việt Minh chính gốc, trả lời Hoàng Phủ Ngọc Tường như  sau "Ðinh Hùng thời đó  là không có chiếu gì.  Nhưng Ngõ Bò  (gần Bạch Mai,  thời đó là nhà ông Ðinh Hùng và Vũ Hoàng Chương) là trung tâm thu hút.  Ai cũng  thấy Ðinh  Hùng là  thi sĩ tượng trưng đầu tiên của  Việt Nam trong Mê Hồn Ca, Lạc Hồn Ca, v.v...  Thơ Ðinh  Hùng như  thế này:  Nửa mặt mày hoa nép hậu  trường. Tôi thích  là vậy". Phùng  Quán có mặt trong đêm ấy, nhưng không bàn về đề tài này.

Tôi cho rằng  Hoàng Phủ Ngọc Tường đã  hiểu méo mó câu trả lời  của Trần Dần. Câu hỏi  mà Ngô Minh đã đặt  cho Trần  Dần là  "Ðộc giả  ở Hội  hỏi anh: thế  giới anh  thích ai  nhất? Tiền  chiến ai  nhất? Thời anh, anh  nể ai nhất? Sau anh,  anh đọc aỉ". Trần Dần trả lời  như vậy có nghĩa là  chỉ nói về Ðinh Hùng tiền  chiến. Dạo tiền chiến,  Ðinh Hùng chỉ có in hai  tác phẩm, một  là tập thơ  văn xuôi "Ðám  ma tôi", ký tên Hồ Ðiệp,  xuất bản khoảng năm 1943-1944 (theo Mai Thảo),  và sau đó là tập Mê  Hồn Ca. Làm gì mà có nhiều tác phẩm để Hoàng Phủ Ngọc Tường nói là đã đọc khá nhiều. Câu thơ Trần Dần  đã dẫn trong đoạn  trả lời  đã trích  trong bài  cuối của  tập Mê Hồn Ca

"Hồn phách thanh tuyền dáng ảo hương
 Bâng khuâng thần chủ lạ thiên đường
 Gợn trong nhân ảnh màu hư cấu.
 Lạc thổ hồng lên tuổi thái dương
 Thức ngủ huyền vi, điềm ngọc sáng.
 Lửa đâu hoài niệm: Ðất phong vương?
 Hiện thân động mái chèo kim cổ,
 Nửa mặt phù sinh nép hậu trường."

Quả tính  siêu thực và  tượng trưng (theo  nghĩa dùng hình tượng, màu sắc để gợi ý) rất mạnh. Có thể những chữ  "hồng lên tuổi  thái dương", hay  "điềm ngọc  sáng"  đã  cho  cảm  giác  sáng bừng, chói nhưng không lòe loẹt. Có thể là khó hiểu nhưng không điểm trang kiểu hát bộ, đầy nét phấn son.
 Chỉ khi  vào tới miền  Nam, và cho  đến năm 1961,  Nam Chí  Tùng Thư  mới xuất  bản tập  "Ðường vào tình sử",  trong đó  những mỹ  từ được Ðinh Hùng  trau chuốt rất nhiềuTrong bài thơ  đầu, Ðinh Hùng đã dùng  màu sắc rất chói và những hình ảnh lạ lùng

"Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình
 Anh sẽ tìm em như tìm một hành tinh
 Mặt trái đất sắp tan vào mộng ảo
 Trên đường ta đi,
 Những đóa hoa nở mặt trời xích đạo
 Những làn hương mang giông tố bình sa
 Những sắc cầu vồng nghiêng cánh chim sa
....
 Em ơi ! Vệt nắng phù kiều uốn mình ô thước
 Ta, suốt đời ngư phủ,
 Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh..."

Nếu những  hình ảnh này  mà có người  cảm nhận là làm dáng quá thì có thể hiểu được.
Nhưng cũng trong  tập thơ này, có nhiều  câu thơ rất trong, không có những mỹ từ nào quá đáng

"Tôi hết thơ hoa, mộng bướm rồi
 Bây giờ lòng kể chuyện lòng thôi
 Bởi em mơ dáng sầu đôi chút,
 Tôi mới  bâng khuâng ngỏ  mấy lời" ("Truyện  lòng")

hay
 
"Hai người có buổi bâng khuâng quá
 Kể truyện mưa xuân với nắng hè
 Chắc hẳn đôi lòng lơ đãng cả
 Vì chưng cùng nói chẳng cùng nghe"

Và có rất nhiều câu  thơ đã được phổ nhạc, rất đẹp và không quá cầu kỳ như

"Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng:
 Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
 Mắt xanh là bóng dừa hoang dại,
 Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng.
 Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay
 Ôi mộng nào hơn giấc mộng này ?
 Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ
 Nửa như  hoài vọng, nửa  như say "
 ("Tự tình dưới hoa")
 
Hoặc

"Từ giã hoàng hôn trong mắt em
 Ta đi tìm những phố không đèn
 Gió mùa thu sớm bao dư vị
 Của chút hương thầm kia mới quen "
 ("Một tiếng em")

"- Nếu bước chân ngà có mỏi
 Xin em dựa sát lòng anh
 Ta đi vào tận rừng xanh,
 Vớt cánh rong vàng bên suối" ("Suối dòng mộng ảo")

Ðinh Hùng của những phút loạn hồn, mê hồn của thời tiền chiến giờ đã chỉ  ca tụng truyện lòng trong cả một tập thơ đẹp. Tôi  được cái may mắn đã đến với  thơ của  Ðinh Hùng  chỉ với  một tấm lòng cảm nhận, nhờ đó giờ đây  còn có được bao nhiêu cái đẹp  còn sót  trong trí  nhớ trong mỗi độ tâm hồn rảnh rỗi để chỉ sống với thơ.

Thơ Ðinh Hùng dùng chữ cầu kỳ và rất mới, nghe như sáo mà không rỗng. Những hình tượng huyền ảo lẫn lộn cho thấy những thoáng mỹ nhân, thiên nhiên, loạn hồn, mê đắm. Những hình ảnh có thể đã đến được trong óc của ông nhờ tác dụng của thuốc phiện. Nhưng phải có một tinh thần rất trật tự có óc tổ chức, thông minh thì mới ghép được chúng mà thành những tác phẩm nghệ thuật. Câu "Nửa mặt phù sinh nép hậu trường" cho tôi một cảm giác nửa thực, nửa siêu thoát, chữ phù sinh mang lại một ảo giác của cánh bướm Trang Tử, nhưng chữ hậu trường lại bao một thực tại. Chữ nép khéo lắm vì tỏ được cái ý nửa này, nửa nọ, một mong muốn xa cách, nhưng vẫn bị chường ra, không có vùng không gian thoải mái để hoạt động.
Giòng thơ Ðinh Hùng còn cho thấy cái hùng khí nhiều khi tàn bạo

"Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất,
 Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly
 Rồi dầy xéo lên sông núi đô kỳ
 Bên thành quách ta ra tay tàn phá"
 ("Bài ca man rợ")

Những hình ảnh y như  trong những phim quái vật khổng lồ loại KingKong  của Nhật, và của Mỹ  vào những năm 1950, những  sinh vật man  rợ, hồng hoang  về tàn phá đô  thị, Trong  đó nào  thiếu những  nét mỹ nhân mà Ðinh Hùng đã tả. Ðinh  Hùng đã thấy những hình ảnh đó  trước thế chiến thứ  hai, Sự  cảm xúc kỳ dị của  thơ là  vậy, người   thi sĩ  có khả  năng viễn kiến so với người đương thời.

Cùng  với Hàn  Mạc Tử,  Ðinh Hùng  đã vượt qua cái sợ chết,  nhờ vậy ông mới  dứt được những cái bó  buộc, chật  hẹp của  cõi sống  mà đi  xa được trong hai khoảng không gian và thời gian như thế.
Tất  cả điều  tôi vừa  viết đều  đến với  tôi bằng cảm nhận, không qua  một hệ thống phân tích ý thức nào.
Tôi thấy  những lời khuyên  của Ainer Maria  Rilke rất đúng với  lòng tôi, trong lúc  thưởng thức thơ Ðinh Hùng. Ông  đã viết như  sau trong bức thư thứ nhất gửi người thi sĩ trẻ tuổi:

"...Tôi không thể đi vào được thể chất của những vần thơ  ông, bởi vì tôi  hoàn toàn xa lạ  với tất cả  việc bình  phẩm phê  bình. Hơn  nữa, muốn  lãnh hội  ý nghĩa  một tác   phẩm, không  gì tai  hại nguy hiểm  cho bằng  những lời  lẽ của  sự phê bình văn nghệ.  Những  lời  lẽ  phê bình  đó chỉ đưa đến những ngộ nhận ít nhiều  quá đáng. Không thể nắm lấy tất cả hay nói tất  cả về những sự vật, như người ta thường ngỡ thế đâu. Phần lớn những gì xảy  đến đều  không thể  diễn tả  được và  đã được  xảy ra  trong một  lãnh vực  mà không có một ngôn  ngữ nào có thể  dẫm tới  được; những tác phẩm nghệ thuật lại còn không thể nào diễn tả hơn mọi sự  khác, những tác phẩm  nghệ thuật là những sinh thể kín  đáo bí  mật mà  đời sống của chúng thì  còn lại  không cùng  trong khi  đời sống chúng ta phải lướt trôi qua nhanh chóng."

Vì đời sống  của con người bị bó  trong một khoảng thời gian và  không gian hữu hạn. Nhu  cầu muốn đi xa hơn,  đi  lâu  hơn  trong    tưởng và tâm hồn tạo những thôi thúc âm thầm nhưng mãi có. Những bài thơ tuyệt tác đã  thay cho những  phi thuyền có  tốc độ vượt ánh sáng để  đi ngược  vào  quá khứ hoặc trổ trước tới tương lai, hoặc  vượt ra khỏi vũ trụ bao la, đến những tinh cầu  hay galaxies thăm thẳm. Vượt không gian tôi  đã mượn những lời thơ  Hàn Mạc Tử để "thoát  ly ra ngoài  thế giới" bay  tới một chỗ chưa có mà thi sĩ gọi  là "Phượng Trì" kề cạnh với một cõi siêu  linh. Mặt khác, tôi nhờ  cánh thơ Ðinh Hùng để vượt thời gian quay về cõi hồng hoang  hát bài ca man  rợ, hay vào cõi  mộng để

"Em muốn như ta mộng chốn nào
 Ước nguyền đã có gác trăng sao.
 Truyện tâm tình: dưới hoa thiên lý,
 Còn lối bâng khuâng: Ngõ trúc đào."

Vào những nơi mà thi sĩ đã đối thoại với linh hồn của  người  yêu  cũ,  hay  một  người  bạn ông mến thương là Thạch Lam
 
"Nhớ xưa, gần bóng Dạ Lan Hương
 Anh với tôi nằm mộng canh trường.
 Giăng kề song cửa, hoa kề gối,
 Anh chuyện sầu, tôi truyện mến thương.
 Tôi với anh giường chung mộng chung,
 Vì duyên thơ mới có duyên lòng
 Anh buồn từ thưở giăng lên núi
 Ấy độ tôi hoài ước lại mong"
 ("Cặp mắt ngày xưa", Gửi hương hồn Thạch Lam)

Những chốn ấy là chốn của thơ, của thế giới thơ, không    chính  trị Nơi mà  những  cặp  mắt khe khắt, những  ngòi bút  sắc mài  để đâm  nhau, những đòi hỏi phục tùng, những bắt  buộc nghĩa vụ ... không có cơ hội tung hoành.

Phạm thế Ðịnh


* Nguyễn Hiến Lê dịch tựa này là ‘Chuyện quái đản’
Sơ lược về Ðinh Hùng:  Tài liệu về tiểu sử Ðinh Hùng tôi  có được, không đưa  những dữ kiện chính xác, xin ghi tạm đây một số điều đã đọc:
Ðinh Hùng  hình như là tên  thật của thi sỹ,  sinh vào khoảng 1921,  thưở trẻ đẹp  trai, mặc dầu  dáng dấp nhỏ  thó, bạn  thân của  Huyền Kiêu, biết và ái mộ nữ họa  sĩ Nguyễn thị  Lựu. Ông học  trường Bưởi và    biết  chơi  măng  cầm  (mandoline)  và vĩ cầm (violon).  Nổi tiếng  ngay khi  thơ chưa  được in, bạn thân với thi sĩ Vũ Hoàng Chương, ông này sau lấy chị Ðinh Hùng.
Nghiện hút thuốc phiện từ  thưở rất trẻ, ngay từ năm 1942-1943, Phạm  Duy đã gặp Ðinh Hùng  đi hút cùng chỗ với nhà thơ Tychia Ðái Ðức Tuấn, nhà văn Ðàm Quang Thiện ...
 Năm 1943-44 xuất bản tập  "Ðám ma tôi" với bút hiệu Hồ Ðiệp, sau đó là tập thơ "Mê Hồn Ca".
Năm 1947 Phạm Duy và Tạ Tỵ có gặp Ðinh Hùng trong vùng kháng chiến với Vũ Hoàng Chương.
 Năm 1950 Ðình Hùng rời khu kháng chiến về Tề.
Di cư vào Nam, Ðinh Hùng cộng tác với báo Tự Do (chủ nhiệm  là Phạm  Việt Tuyền)  làm thơ  trào phúng mục "Ðàn  Ngang  Cung"  với  bút hiệu  Thần  Ðăng, viết phiếm  trong  mục  "Nói  hay  đừng",  ông  thực  hiện chương trình  thơ Tao Ðàn  cho đài phát  thanh Sài Gòn cho đến khi chết. Chương  trình này sau  vẫn được tiếp  tục cho  đến 1975,  do bà  Ðinh Hùng thực hiện với sự giúp đỡ của các nghệ sĩ thân hữu.
 Trong  Nam, Ðinh  Hùng cho xuất bản  ba tập  thơ "Mê  Hồn Ca" (tái bản), "Ðường vào tình sử"  và "Ngày đó có em" (theo Phạm Duy).
Ông cũng  viết những chuyện  dã sử như  "Kỳ Nữ Gò Ôn  Khâu",  "Ðường  Kiếm  họ  Hoàng",  văn ông không được ái mộ bằng thơ của ông.
Ðinh Hùng mất vào năm 1969, thân hình teo lại như một đứa bé.  Khi ông mất, nhà  rất nghèo vì cả  hai vợ chồng  đều  nghiện  hút.  Lúc  đó  nhờ ông tướng Nguyễn  Bảo Trị  can thiệp  nên xác  ông mới  được chôn tại  nghĩa trang Ðô  Thành. Số người  đã đến đưa người thi sĩ tài hoa này tới phần mộ đi sau xe
tang dài khoảng 1 cây số.  Người thi sĩ của những thi sĩ, nhà thơ của những nhà  thơ miền Nam đã để lại nhiều tiếc thương cho những người yêu thơ của ông, điển hình là hình ảnh của  thi sĩ Hoàng Anh Tuấn đã ôm mặt  khóc nức nở ngay  cả sau khi mọi  người đã tản mác ra về.
 
Tài liệu tham khảo:

 Ðinh Hùng Tác Giả và tác phẩm (nhà xuất bản Ðờ)
Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân
Tìm hiểu thơ Việt Nam của Nguyễn Hưng Quốc
Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi của Rainer Maria Rilker (Phạm Công Thiện dịch)
Trăm  Hoa  vẫn  nở  trên  quê  hương