Năm 1920 ông được gửi sang Việt Nam. Tại Việt Nam, Charles Peyrin được giao trách nhiệm đi chụp ảnh cho cơ quan vẽ bản đồ (service de cartographie). Trong mấy năm liền, ông có dịp đi rất nhiều nơi, từ vùng Việt Bắc vào tới miền Nam. Ông đã từng cư trú tại Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lai Châu, Nha Trang, Tây Nguyên, Sài Gòn, Mỹ Tho, vùng biên giới Cao Miên v.v. Tới đâu ông cũng chụp rất nhiều ảnh, chụp cho cơ quan và chụp riêng cho chính mình. Năm 1925, Charles Peyrin trở về Pháp, lấy cô Simone. Năm 1926 cặp vợ chồng trẻ cùng trở lại Việt Nam. Ông tiếp tục công việc cũ. Ông bà sinh người con trai đầu lòng Marcel-Paul tại Hà Nội. Cuối năm 1933, quan ba (capitaine) Charles Peyrin cùng vợ con hồi hương. Về Pháp, Ông tiếp tục phục vụ nhà binh cho đến ngày về hưu. Ông bà sinh thêm người con trai Yvon. Charles Peyrin mất năm 1972, chôn tại làng Ambialet. |
Kho ảnh tư của Charles Peyrin, nói đúng hơn là kho âm bản bằng kính, có khoảng hơn 1000 tấm. Aûnh chụp tại Việt Nam chiếm độ hai phần ba. Ngoài mấy chục tấm chụp cỡ lớn (9x12 cm và 13x18 cm) phần còn lại là cỡ 6x6 cm. Điểm đặc biệt của bộ âm bản này là được chụp bằng máy ảnh được trang bị 2 ống kính. Mỗi tấm kính 6x13 cm được chụp và tráng ra thành 2 âm bản 6x6 cm tương ứng với góc nhìn của mắt phải và mắt trái. Cho vào máy đặc biệt, soi lên sẽ thấy hình nổi (stéréo).Toàn bộ số âm bản của Charles Peyrin chụp và tráng tại Việt Nam này chưa hề được rửa ra giấy lần nào. Chúng ngủ im hơn 50 năm trong mấy cái hộp ẩm mốc, bụi bặm. Một số bắt đầu bị tróc, bị rách. Có vài tấm bị vỡ, sứt mẻ. Tất cả bị bỏ quên trong một xó gác xép. Lần trước gặp cụ Simone tôi e ngại không dám mượn nhiều. Chính cụ cũng hơi lúng túng và kín đáo tỏ ý không muốn cho mượn những tấm chụp cộng đồng người Pháp vì không hay ho, bổ ích gì đối với người Việt Nam. Tôi không kèo nài và chỉ lựa nhanh được khoảng hơn 100 tấm âm bản. |
Lúc bắt tay vào rửa ảnh, câu hỏi đầu tiên được đặt ra là ảnh nên phóng lớn cỡ nào? Rửa thử vài tấm thì nhận ra rằng máy ảnh thời đầu thế kỉ 20 còn thô sơ, chưa có các bộ phận đo ngắm chính xác. Nhiều máy không có điều chỉnh vận tốc hoặc nếu có thì cũng chỉ có một hai vận tốc chậm. Độ nhạy của émulsion orthochromatique (Lumière, Agfa, Aschrom, Guilleminot) cũng rất bị giới hạn. Trong điều kiện khó khăn như vậy mà chụp được một tấm ảnh có bố cục cân đối, đường nét rõ ràng, sắc độ tương phản trung bình, thì ngoài tài của nhiếp ảnh gia còn phải trông cậy một phần vào may mắn. Ngược lại, bố cục lệch lạc, đường nét chao mờ, sắc độ đậm nhạt quá đáng thường hay xảy ra. Hậu quả dễ hiểu là ảnh hình vuông thường có bố cục lỏng lẻo. Tôi quyết định cắt bỏ những chỗ trống rỗng. Ảnh hình chữ nhật có bố cục chặt chẽ, hài hòa hơn. Điều cốt yếu là nội dung tuyệt đối không bị thay đổi.Tôi chọn khổ giấy 24x30 cm gần giống hình vuông. Vừa đủ lớn mà không quá cồng kềnh, tốn kém. Giấy tốt, thuốc hay, tay quen, nên khâu rửa ảnh ra giấy tương đối nhanh. Nói là nhanh nhưng cũng phải mất cho mỗi tấm khoảng nửa giờ loay hoay rửa thử vì chất lượng các tấm âm bản rất chênh lệch nhau. Tấm thì mờ nhạt, tấm thì đen kịt. Khâu tu sửa ảnh mới đòi hỏi nhiều thời gian vì hầu như tấm âm bản nào cũng bị mốc, trầy xước, có vết tay. Trung bình mỗi tấm ảnh cần độ vài giờ trang điểm, tẩy xóa, nhưng thỉnh thoảng gặp tấm "bỏ thì thương, vương thì tội", hư hỏng nhiều quá, thì phải mất một hai ngày mới xong. Tôi bỏ ra vài tháng lau chùi, rửa và tu sửa xong hơn 100 tấm ảnh. Ảnh được đem đi trưng bày triển lãm ba lần, cho bạn bè Pháp mượn dùng làm tài liệu thảo luận, trình bày về đề tài Thực dân Pháp tại Việt Nam. Thế rồi bẵng đi một thời gian tôi không để ý đến kho ảnh Charles Peyrin nữa. 100 tấm cũng tạm đủ ! Mới đây, năm 2000, nhân dịp trao đổi với mấy người bạn thì được biết dường như tại Việt Nam đang có nhu cầu tìm kiếm những hình ảnh ngày xưa. Tôi sực nhớ đến cụ Simone... |