Nhiều người bạn, ngoại quốc và ngay cả Việt, đã từng hỏi : Tại sao người Việt Nam có nhiều chùa như vậy ? Câu trả lời không dễ trả lời, vì nó bao trùm nhiều lãnh vực. Nhưng để đơn giản, chúng ta thử quay về nguồn gốc của vấn đề. Nhiều chùa thì lắm thầy. Mà lắm thầy thì các thầy từ đâu đến ?
Cơ quan Di Trú Hoa Kỳ có 4 dạng chiếu khán lao động theo thứ tự từ EB1 đến EB4 cho những người có khả năng đặc biệt nếu họ muốn làm việc ở Mỹ. EB4 là những người tu sĩ tôn giáo hoặc cư sĩ, tín đồ hoạt động cho các tôn giáo. Trong năm 2015, con số người Việt qua Mỹ theo dạng EB4 là 350 người, cao nhất so với các hạng lao động khác. Đây cũng là con số cao thứ hai so với tất cả các nước khác, chỉ sau Mexico, nước láng giềng của Mỹ với con số 376 EB4 visa.
Kiếm được một visa để qua Mỹ làm việc không phải là chuyện dễ. Một cơ quan (Phi chính phủ) NGO trên mạng viết “many cases where people paid Twenty Thousand Dollars or more” (nhiều trường hợp người ta phải trả hai chục ngàn đồng Mỹ kim hay hơn nữa) để được chiếu khán lao động tại Hoa Kỳ.
EB4 có hai hạng : thứ nhất là hạng tu sĩ, Phật Giáo hay Thiên chúa giáo ; thứ hai là hạng cư sĩ hay tín đồ hoạt động cho các tôn giáo. Mỹ không có giới hạn cho số tu sĩ di cư sang Mỹ làm việc. Giới hạn cho hạng cư sĩ / tín đồ là 5.000 người một năm.
Để được di cư, những người đi theo dạng EB4 cần có ba điều kiện chính. Thứ nhất, họ phải được bảo lãnh bởi một tổ chức tôn giáo ở Mỹ được miễn thuế, được xác nhận là 501(c)(3). Thứ hai, họ đã làm việc ít nhất là hai năm cho tôn giáo đó ở Việt Nam. Thứ ba, họ phải có được việc làm có lương và làm việc ít nhất là 35 giờ một tuần. Vợ (hoặc chồng) và con (dưới 21) được quyền tháp tùng người tu sĩ hay cư sĩ. Ngay sau khi được nhận qua dạng EB4, các tu sĩ và cư sĩ có quyền xin tá túc cố định (permanent resident), bắt đầu qui trình trở thành công dân Mỹ.
Việt Nam là một nước không có tự do tôn giáo, do đó cũng không có tu sĩ tự do. Các tu sĩ được Chính quyền cộng sản chấp thuận để được di trú ở Mỹ là những tu sĩ được chế độ ưu tiên, hay đủ tài chánh để trả $20,000 cho một chiếu khán. Nếu được ưu tiên, thì phải có lý do. Mà lý đó có lợi cho Chính quyền Hà Nội thì e rằng không có lợi cho cộng đồng người Việt ở Mỹ. Để tiện so sánh, chúng ta cũng nên biết là không có EB-4 visa nào từ Trung Quốc. Với một số lớn tu sĩ được EB-4 đến từ Việt Nam, chúng ta có ba giả thuyết :
- Thứ nhất, đây là một chuyện ngẫu nhiên, nhưng đã liên tục xảy ra trong nhiều năm ;
- Thứ hai, Việt Nam là một nước mà Phật giáo phát triển cực thịnh, đưa đến nhiều tu sĩ qua Mỹ để hoằng dương Phật pháp ; hoặc là
- Thứ ba, đây là một chính sách từ Chính quyền Hà Nội với mục tiêu không tốt đẹp cho Phật giáo cũng như cho chính thể quốc gia. Có lẽ bạn đọc đồng ý với chúng tôi giả thuyết thứ ba là chính xác nhất.
Có một số đặc điểm của các trụ sở tôn giáo, đặc biệt là Phật Giáo, đứng ra bảo lãnh các vị tu sĩ này. Thứ nhất, họ là các tổ chức tôn giáo miễn thuế vì thế phải chấp nhận các luật lệ của Sở Thuế Vụ. Thứ hai, họ không là đơn vị của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vì vị thế bất đồng chính kiến của Giáo Hội cũng như của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, người lãnh đạo Giáo Hội. Vì vậy, việc họ từ bỏ Giáo Hội để rồi bảo lãnh cho các tu sĩ từ Việt Nam không phải vì dị biệt với cá nhân nầy hay với lập trường nọ, mà là vì nhu cầu kinh doanh hay công tác chính trị.
Thứ ba, theo luật pháp, các tu sĩ Phật Giáo di cư phải làm việc cho các trụ sở Phật Giáo bảo lãnh họ. Nếu các tu sĩ này phải trả tiền cho các trụ sở Phật Giáo, thay vì ngược lại, thì đó không những là trái luật mà còn cố tình phạm pháp. Cộng đồng người Việt Quốc Gia nào chấp nhận những hoạt động này của các trụ sở Phật Giáo là không trung thực với lập trường Chống Cộng. Mỗi cá nhân chúng ta, biết ơn sự cưu mang của đất nước thứ hai này, không thể làm ngơ trước những hoạt động phi pháp, làm hại cho cộng đồng, hại cho tôn giáo, và hại cho cả đất nước mình đang cư ngụ.
California Department of Justice
Office of Immigrant Assistance
(888) 587-0557
(Đón xem kỳ tới, Bài 2 : Sự Đào Tạo Của Một Sư Quốc Doanh)