Thursday, 3 April 2014

KHÍ CÔNG Y ĐẠO VIỆT NAM CẨM NANG Y HỌC BỔ SUNG

KHÍ CÔNG Y ĐẠO VIỆT NAM
CẨM NANG
Y HỌC BỔ SUNG
DÀNH CHO MỌI NGƯỜI BIẾT CÁCH PHÒNG BỆNH

PHƯƠNG PHÁP TỰ KHÁM TÌM BỆNH
BẰNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT
MÁY ĐO ĐƯỜNG
NHIỆT KẾ
MÁY KHÁM BỆNH QUEST
VÀ BIẾT NGUYÊN NHÂN CÁC BỆNH THEO 28 MẠCH ĐÔNG Y

SẼ TỰ BIẾT CÁCH CHỮA BỆNH ĐƠN GIẢN CÓ HIỆU QỦA

ĐỖ ĐỨC NGỌC

*****************
PHẦN MỘT


BIẾT CÔNG DỤNG CỦA MÁY ĐO ÁP HUYẾT
ĐỂ PHÒNG NGỪA TRƯỚC NHỮNG BỆNH NAN Y CHẾT NGƯỜI
Trước hết, chúng ta muốn biết công dụng của máy đo áp huyết với mục đích để khám tìm bệnh theo nguyên tắc đông y xem khí và huyết bị bệnh hư hay thực, hàn hay nhiệt, chúng ta phải dựa vào một tiêu chuẩn căn bản về áp huyết tính theo 5 nhóm tuổi có những giới hạn riêng cho mỗi nhóm mà ngành Y Học Bổ Sung của môn học Khí Công Y Đạo đã có hơn 30 năm kinh nghiêm chữa trị đúc kết thành bảng “ Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi” như sau :
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Đối với tây y chưa thấy bảng tiêu chuẩn áp huyết là quan trọng, chỉ cần biết những bệnh nhân nào thường xuyên có áp huyết cao hơn 145mmHg thì cần phải uống thuốc hạ áp huyết suốt đời để phòng bệnh tai biến mạch màu não mà thôi.

Còn đối với ngành Y Học Bổ Sung, lại căn cứ vào bảng Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi nên mới biết được : Công dụng của máy đo áp huyết để phòng ngừa trước những bệnh nan y dựa vào kết qủa 3 số đo của máy là số tâm thu, tâm trương và nhịp tim, có ý nghĩa về tình trạng tuần hoàn Khí (dương) hư hay thực,, tuần hoàn Huyết (âm) hư hay thực, và nhịp tim là tình trạng hàn hay nhiệt theo lý thuyết đông y, nên những kết qủa đo áp huyết của tây y đổi thành công thức khám định bệnh của đông y là :

Khí lực hư-thực/ Huyết (lượng máu chạy qua tim) hư-thực/ hàn hay nhiệt

Y Học Bổ Sung sử dụng máy đo áp huyết đo ở 2 tay và 2 cổ chân trong, tìm ra được nguyên nhân của nhiều bệnh nan y sắp xẩy ra để biết cách phòng ngừa, nhờ vào số khí lực (oxy), lượng máu, trong người dư hay thiếu mà nó tuần hoàn tạo ra nhịp tim nhanh hay chậm làm cơ thể nóng hay lạnh, không đúng với tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi là cơ thể đã có bệnh mà tây y chưa tìm ra được.
Đo áp huyết bên tay trái trước và sau khi ăn để so sánh, sẽ có kết qủa khác nhau, để biết chức năng của bao tử và lá lách còn hấp thụ và chuyển hóa tốt hay xấu.
Đo áp huyết bên tay phải trước và sau khi để so sánh, kết qủa khác nhau, để biết chức năng của gan mật còn hấp thụ và chuyển hóa tốt hay xấu.
1-Biết cơ thể nóng hay lạnh qua kết qủa nhịp tim của máy đo áp huyết thuận hay nghịch:
Đông y khi bắt mạch, việc đầu tiên là nghe nhịp tim đập để biết hàn-nhiệt, đối với Y học Bổ Sung khi đo áp huyết phải biết nhịp tim nằm trong tiêu chuẩn 70-80 là tốt, không hàn không nhiệt.
Tại sao nhịp tim liên quan đến hàn-nhiệt (nóng lạnh của cơ thể)
Một người có nhịp tim bình thưởng không nóng không lạnh theo tây y từ 70-80 nhịp tim đập trong 1 phút, tương đưong với tiêu chuẩn bắt mạch của đông y, một người thầy thuốc khỏe mạnh như những người khỏe mạnh khác đều có hơi thở trung bình từ 18-20 hơi thở trong 1 phút. Thầy thuốc đông y bắt mạch bệnh nhân dựa vào hơi thở của mình, cứ 1 hơi thở ra và vào của mình sẽ nghe được nhịp đập của mạch ở cổ tay bệnh nhân là 4 nhịp, như vậy 1 phút của thầy thuốc nghe được 72-80 nhịp mạch đập ở cổ tay bệnh nhân, như vậy mạch này không có bệnh, giống tiêu chuẩn của tây y. Kiểm chứng bằng nhiệt kế thân nhiệt nằm trong tiêu chuẩn 36.5-37.5 độ C.
Khi chúng ta chạy xong thì thân nhiệt tăng và nhịp tim đập nhanh cao hơn tiêu chuẩn, nhiệt độ cao hơn 38 độ C và nhịp tim đập nhanh hơn 80 thì đông y gọi là nhiệt. Khi người chúng ta lạnh, nhiệt kế chỉ thấp dưới 36.5 độ C nhịp tim đập dưới 70, thì đông y gọi là hàn. Đông y gọi là mạch thuận.
Nếu đo đường-huyết cũng nằm trong tiêu chuẩn không có bệnh từ 6.0-8.0mmol/l là mạch thuận, ngược lại đường-huyết cao hơn hay thấp hơn là mạch nghịch, để biết tình trạng bệnh nặng hay nhẹ dễ chữa hay khó chữa.

2-Biết được thức ăn thuốc uống nào làm tăng hay giảm áp huyết có phù hợp với nhu cầu cơ thể đang cần hay không.
Có nghĩa là trước và sau khi ăn 1 món ăn, uống 1 loại thuốc hay ăn 1 loại trái cây, đều phải đo áp huyết ở 2 tay, trước và sau khi ăn 30 phút, rồi so sánh kết qủa xem nó có làm tăng hay giảm khí lực, tăng hay giảm lượng máu qua tim, tăng hay giảm nhịp tim tốt xấu như thế nào, từ đó biết cách chọn thức ăn thuốc uống phù hợp cho khỏi bệnh.
Thí dụ : ăn 1 trái hồng, 1 múi sầu riêng, hay 10 trái nhãn hoặc chôm chôm, hoặc 5 múi mít, hoặc ngậm mấy miếng cam thảo, uống 1 lon coke....đo áp huyết thấy tăng lên 10mmHg, nếu mình đang có áp huyết cao thì sẽ làm tăng thêm áp huyết làm bệnh nặng thêm thì không hợp, những thứ này chỉ có lợi cho ngươi có áp huyết thấp.
Ngược lại, khi ăn gạo lức muối mè trong 1 tháng, uống nước đậu xanh, uống trà xanh, ăn canh củ sen, khổ qua...đo áp huyết thấy càng ngày càng giảm, nếu mình có bệnh áp huyết thấp thì áp huyết càng thấp hơn khiến người mất khí lực bị ốm gầy dần thì không có lợi, chỉ có lợi với những người có bệnh cao áp huyết.
Cũng nhờ phương pháp kiểm soát các món ăn thức uống này, chúng ta biết món ăn thức uống nào hợp hay không hợp, đó là cách ngừa bệnh, không làm cho tình trạnh bệnh nặng thêm.
Ăn gạo lức muối mè có lợi cho người mập, dư mỡ, cao áp huyết, nhưng có hại cho người ốm, áp huyết thấp sẽ làm chết người.

Ngành Y Học Bổ Sung chú trọng đến việc quân bình Âm-Dương trong những thức ăn uống để điều chỉnh Huyết, và tập luyện khí công để điều chỉnh Khí lực và nhịp tim, qua sự kiểm chứng bằng máy đo áp huyết.
Số thứ nhất chỉ tâm thu là Khí lực, số thứ hai chỉ tâm trương là Huyết, theo Y Học Bổ Sung thì khí lực là Oxy hay là Dương, huyết nói chung gồm nước (H2O), máu Fe2O3, mỡ, đường là Âm. Khi Âm-Dương trao đổi điều hòa đúng sẽ cho ra nhịp tim đập đúng tiêu chuẩn từ 70-80 nhịp trong 1 phút.

Theo đông y, âm làm nở ra, như mập, to, béo. Dương thu vào, làm ốm, đi. Khi nhìn một người không mập, không ốm, thì âm dương quân bình không bệnh tật.

Về dinh dưỡng, theo ông Oshawa, ăn nhiều thịt, mỡ, đường là âm, người hay bị bệnh là người dư âm, thiếu dương, nên cần phải ăn nhiều chất dương là Gạo Lức muối mè để lấy lại quân bình âm-dương cho cơ thể thì sẽ khỏi bệnh.

Từ khi có phong trào ăn gạo lức muối mè, công thức số 7, nhiều người áp huyết cao, người béo phì, dư mỡ, cholesterol, dư đường đả được khỏi bệnh, tuy nhiên cũng đã có nhiều người không biết quân bình âm-dương, ăn gạo lức muối mè cho đến khi cơ thể suy nhược đến chết mà không hiểu nguyên nhân tại sao, nên chúng tôi đem vấn đề quân bình âm dương khí huyết để phân tích sự áp dụng đúng hay sai trong vấn đề ăn uống.

Cơ thể chúng ta được khỏe mạnh hay bệnh tật do 2 yếu tố Khí lực và Huyết hòa hợp hay mất quân bình, kiểm chứng bằng máy đo áp huyết sẽ thấy kết qủa, so sánh với Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi :

Đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo :
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Thí dụ chúng ta ở tuổi trung niên, áp huyết tiêu chuẩn là.
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
Nhưng thực tế áp huyết đo được :
Bên tay trái đo đựợc : 140/90mmHg nhịp tim, đo chức năng làm việc của bao tử.
Bên tay phải đo được : 142/92mmHg nhịp tim 86, đo chức năng làm việc của gan

Như vậy áp huyết này cao hơn tiêu chuẩn tuổi 12mmHg, đối với tây y vẫn chưa cần phải uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết, nhưng nếu áp huyết ở tuổi lão niên 140mmHg mà cao thêm 12mmHg thành 152mmHg thì phải dùng thuốc trị bệnh cao áp huyết.

Sự chênh lệch áp huyết 2 tay, trước khi ăn, bao tử trống rỗng thì áp huyết bên tay trái phải thấp tối thiểu 120mmHg, nhưng áp huyết bên gan tay phải, đang làm việc tiết chất chua và mật cho bao tử cảm thấy xót làm đói, nên áp huyết tay phải cao tối đa là 130mmHg. Sự chênh lệch 10mmHg giúp mình đói nhiều nên ăn được nhiều, chênh lệch nhau ít thì không thấy thèm ăn, nên ăn ít.

Sau khi ăn, thì bao tử đầy, áp huyết đo tay trái thấy tăng lên tối đa 130mmHg, còn đo bên tay phải, áp huyết bên gan nghỉ ngơi, thì xuống thấp tối thiểu 120mmHg, nếu chênh lệch 2 tay là 10mmHg thì sự chuyển hóa thức ăn 100%, nếu chênh lệch 3mmHg thì sự hấp thụ chuyển hóa thức ăn 30%, còn lại 70% biến thành mỡ bụng mà không biến thành máu, nếu không tập bài khí công : Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng 600 lần làm nhồi bóp bao tử xuất hết thức ăn còn lưu lại trong bao tử thì những thức ăn đó lên men tăng nhiệt làm ợ chua làm thành bệnh bướu cổ, nếu lấy tay ấn đè vào bao tử có nơi cứng cộm đau sau này thành khối u bướu trong bao tử sẽ bị cắt bỏ một phần bao tử.

Số thứ hai của máy đo áp huyết là tâm trương chỉ lượng máu (có chứa mỡ, nước H2O, đường C6H12O6) chạy qua tim, ở tuổi trung niên, tối đa 80, ở tuổi lão niên, tối đa 90, nếu hơn số này là dư âm huyết.

a-Những trường hợp ăn gạo lức muối mè rất có lợi :

Tính chất của gạo lức là dương, có tính háo nước, nên cần âm để trung hòa âm-dương, nghĩa là 1 lon gạo lức, cần 2 lon nước, cơm mới nở mềm, không bị khô, nhưng nấu 1.5 lon nước cơm hơi khô, phải nhai kỹ, mỗi miếng cơm nhai 50 lần cho ra nước miếng, như vậy mỗi bữa ăn, gạo lức cần thêm 0.5 lon nước trong cơ thể, làm rút bớt nước và đường trong máu, làm số tâm trương giảm dần mỗi ngày, cơ thể mất nước giảm trọng lượng cơ thể làm ốm, làm tan nước trong mỡ bụng, còn oxy là khí lực tâm thu bị carbon trong cơ thể lấy mất thành thán khí CO2 theo hơi thở ra, cũng làm giảm khí lực.

Sau một thời gian theo dõi áp huyết, đường và trong lượng cơ thể có kết qủa là áp huyết hạ cả khí lực, cả huyết, cả đường trong máu, trở về tiêu chuẩn áp huyết theo đúng tuổi, sụt câm giảm béo phì, nhìn hình tướng cửa cơ thể bây giờ là không mập, không ốm, là âm-dương đã quân bình, nên cần phải ngưng ăn gạo lức muối mè.

b-Những trường hợp ăn gạo lức muối mè rất có hại làm chết người :

Những người gấy ốm, áp huyết thấp, thiếu máu, thiếu đường, đo áp huyết thấp dưới tiêu chuẩn tuổi là thiếu khí lực, thiếu máu, thiếu đường. Tuổi người lớn trung niên hay lão niên mà đo áp huyết chỉ có 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi - 17 tuổi).

Sau khi ăn gạo lức muối mè, áp huyết càng tụt thấp dưới 100mmHg, là khí lực mất, máu càng thiếu, đường trong máu thấp làm rối loạn nhịp tim, gây ra đau nhức, mệt mỏi, buồn ngủ, cơ thể không có sức, ăn không tiêu, mất trí nhớ, rụng tóc, loãng xương, hoa mắt chóng mặt, mắt mờ, tai lãng...trong người cảm thấy nóng, nhưng bàn tay chân và ngoài da lạnh phải mặc áo ấm...đó là dấu hiếu của bệnh ung thư.

So sánh công dụng của gạo lức muối mè chữa bệnh cao áp huyết, tiểu đường, dư mỡ cholesterol, áp huyết đang từ cao như 150/100mmHg nhịp tim 90, sau khi ăn 1 thời gian 6 tháng đến 1 năm, áp huyết cả 3 số đều xuống, khí lực từ 150mmHg xuống còn 130mmHg như vậy khí lực giảm 20mmHg, huyết tâm trương 100mmHg xuống 80mmHg thì huyết giảm 20mmHg.

Như vậy một người có áp huyết thấp 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65, sau khi ăn gạo lức muối mè 6-12 tháng cũng sẽ bị tụt thấp cả khí lực xuống 20mmHg, huyết xuống 20mmHg thì áp huyết còn lại, khí lực 80mmHg, huyết 65mmHg xuống 20mmHg còn lại 45mmHg, nhịp tim 65 xuống 20 còn 45 như vậy sẽ chết vì thiếu dinh dưỡng, ăn gạo lức muối mè làm sụt cân 20 kg, như vậy các tế bào sẽ chết vì thiếu dinh dưỡng mới trở thành tế bào ung thư.

Chúng ta hãy xem một đoạn thư hỏi nguyên nhân tại sao bị bệnh và cách chữa phải làm sao như thư dưới đây :

Kính thưa thầy.
Con 38 tuổi, đang sinh sống và làm vịêc tại Việt Nam. Con thật may mắn khi gặp được trang web của Thầy. 
  Thưa thầy con viết thư này gửi tới thầy với hy vọng sẽ được thầy giúp đỡ hướng dẫn cho con ăn uống , tâp  luyện đúng để chửa lành thân bệnh và tâm bệnh. 
Thưa thầy tư nhỏ con đã bi bệnh đau nhức xương khớp, con đã dùng rất nhiều kháng sinh. Người con rất yếu, cơ thể lúc nào cũng lạnh đặc biệt 2 tay, 2 chân, 2 tai, vùng lưng trên hay ớn lạnh. Con thường xuyên đau đầu vùng trước trán, hay căng thẳng, thường hoa mắt chóng mặt. Chân tay rất hay bị tê. Con bị viêm xoang đã 20 năm nay. Cổ họng thường xuyên có đờm, đặc biệt là sáng sớm khi ngủ dậy và miệng thường đầy nước, họng thi ứ đờm khi nhổ khạc thỉnh thoảng có kèm theo vết máu. Con còn bị đau bao tử, đi cầu phân sống. Cách đây 5 năm một thời gian dài con đã dùng rât nhiều đồ ngọt cơ thể mập hơn nhưng bệnh đương ruột càng nặng và trí nhớ suy giảm hẳn.
 Cách đây hơn một năm tình cờ con gặp pp gạo lứt muối mè chũa bệnh. Con đã ăn số 7 được 5 tuần, từ 45kg con còn 37kg và người con lạnh không chịu nổi. Con ăn ra nhưng do không biết cách ăn ra rồi lại gặp dịp tết cổ truyền con đã ăn uống tùy tiện kết quả là bệnh tình càng nặng, đi cầu ngày 2-3 lần và phải dùng sức, còn thận thì không chịu được con thương xuyên mắc tiểu. Con dùng thuốc bắc thì tình trạng mắc tiểu thường xuyên có đỡ. 
   Hiện tại con đang ăn gạo lứt với một ít rau củ, đồ ăn thực dưỡng, thỉnh thoảng có ăn mặn. Khi nào con ăn có chất chút ít là con lại hay buồn tiểu, đi tiểu nhiều, nước tiểu trắng. Thường bị táo, phân lúc đầu chặt sau nhão, khó đi. Từ lúc ăn vô cẩn thận hơn con thương dậy sơm khoảng 3 đến 4 giờ sáng nhưng ban ngày lại buồn ngủ. Hiện tại con còn 35kg, da xanh mét, lúc nào cũng thèm ăn, nhanh no nhanh đói. bệnh tật thì vẫn vậy, người con lúc nào cũng lạnh. Tóc con rụng rất nhiều, ở cổ họng thường xuyên bị tắc. Vùng ngực trái, sườn trái khó chịu. Con nghi thận, tim , phổi, gan...của con đều có vấn đề. Con đang uống thêm viên AGE, viên men ruột 27 tỉ vi khuẩn. đường ruột có đỡ hơn ạ. 
Áp huyết của con là :
Buổi trưa: 
Trước ăn: Tay phải: 83 - 58 - 65 . Tay trái: 84- 59 - 63.
 Sau ăn:   Tay phải: 73- 47 - 75 . Tay trái: 76 - 51 - 74.
Buổi tối: 
Trước ăn: Tay phải: 76 - 51 - 73. Tay trái: 80- 52- 71.
Sau ăn:   Tay phải: 73- 50 - 75. Tay trái: 70 - 50 - 84.
Con mong sớm nhận được thư của Thầy. Được thầy chỉ dẫn cho con mà thân tâm được khỏe. Con kính chúc Thầy an lành, mạnh khỏe, sống thật lâu để giúp đời, cứu người . NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!

Trả lời :

Càng ăn gạo lức muối mè áp huyết càng xuống thấp thì chết.
Ăn gạo lức muối mè chỉ dành cho người áp huyết cao, mập, tiểu đường cao, khi ăn gạo lức áp huyết xuống, đường xuống, giảm cân làm ốm không đủ dinh dưỡng là oxy và máu nuôi các tế bào chức năng sinh ra nhiều bệnh tật..
Ngược lại, người thiếu máu, thiếu đường, áp huyết thấp mà ăn gạo lức muối mè cho ốm thêm, áp huyết và đường xuống thấp gây ra hàng trăm bệnh, do mình ăn sai, thì sẽ chết vì mất sức.
Hãy bỏ ngay gạo lức muối mè, thay vào đó, mỗi ngày ăn 1 tô phở hay bún bò huế, uống 1/2 lon Coke, Coca Cola, làm tăng áp huyết bổ máu, tăng đường, sau khi ăn 30 phút thì nằm tập bài Kéo Ép Gối Nhanh 600 lần làm chuyển hóa đường và thức ăn thành chất bổ máu, tăng cân, tăng áp huyết. Khi đang tập mà mệt thì uống thêm 2 thìa đường rồi tập tiếp cho đủ số 600, sau khi tập ngậm thêm 1 cục kẹo sẽ không bị mệt và chóng mặt.

Áp dụng phương pháp này trong 2 tháng sẽ khỏe mạnh, khi áp huyết lên đúng tiêu chuẩn tuổi thì khỏi bệnh hoàn toàn.

c-Cách ăn gạo lức muối mè quân bình âm-dương tốt cho mọi người cao hay thấp áp huyết.

Tôi áp dụng ăn gạo lức muối mè từ năm 1968, mới đầu theo phương pháp Oshawa, nhai kỹ 50 lần 1 miếng cơm, nên ăn 1 chén cơm lâu 2 giờ, lại bị mỏi râng, mỏi hàm, và ăn không được nhiều, người lại bị gầy đi.
Sau tôi nấu 1 lon gạo lức với 3 lon nước, định nấu thành cháo với mục đích ăn gạo lức chữa bệnh và đỡ phải nhai, và gạo lức nấu nhiều nước thì gạo lức không rút nước cơ thể mình, cơ thể mình không bị thiếu nước, nên không cần uống thêm nước. Nhưng sau khi nấu thì gạo nở lớn gấp 3 như cốm, nhưng không nhão hay lỏng như cháo, vỏ gạo vẫn khô, khi ăn một miếng cơm vào miệng chấm với muối mè vàng còn vỏ, giã chung với đậu phộng rang và thêm đường, thì tự nhiên miệng không cần nhai, hạt cơm khi nhai tan thành sữa ngọt mặn, ăn mỗi bữa được 7 chén cơm trong 30 phút, cả ngày không khát nước, lên cân 10 kg trong 1 năm, người tròn chắc không mập không ốm, đo áp huyết và đường lúc nào cũng trong tiêu chuẩn, không bị bao giờ bị bệnh, người trẻ lại. Đó là biết cách quân bình âm-dương.

Chúng ta xem thêm một lá thư của một bệnh nhân ăn gạo lức muối mè sai âm dương :

Thưa thầy 
Bây giờ sau hàng chục bài viết của thầy về B12 và đường con đã hiểu ra vì sao khi con ăn gạo lứt muối mè làm cho con xuống cân khủng khiếp từ 72kg xuống còn 54 kg, sau khi nghe thầy ăn đường và gạo lứt con đã lên 58 kg, sau khi ăn thịt cá bây giờ con 61 kg, không còn nghe ai chê ốm nữa và con cũng đã hiểu có người bị ung thư ăn gạo lứt muối mè mà vẫn chết rồi ngươi ta bảo là đã đến với phương pháp OHSAWA trễ quá. Tất cả là do thiếu chìa khóa TINH KHÍ THẦN mà thôi
Bây giờ con muốn ăn gạo lứt muối mè trường kỳ thì cần phải ăn thêm đường trong muối mè + đậu phộng giống như thầy đã từng ăn. Nhưng con muốn hỏi là sau khi ăn 3 bữa chính sau đó có cần uống thêm 2 muỗng đường rồi 30 phút sau tập kéo ép gối 600 lần để tiêu hóa toàn bộ thức ăn. Hay là ăn gạo lứt muối mè + đậu phộng +đường rồi 30 phút sau uống 2 muỗng đường rồi kéo ép gối 600 lần, kéo 600 lần mất 30 phút đó thầy. Hay là ăn gạo lứt muối mè + đậu phộng +đường rồi không cần kéo ép gối nên không cần uống thêm 2 muỗng đường . Cách nào tốt nhất.
Rồi khi nào tập võ cần đường thì ăn đường tỷ lệ với nhu cầu vận động

Đường sau khi vào cơ thể đốt ra CO2 và nước và nhiệt năng. Như vậy còn gì đâu để mà xây dựng cơ thể.
Con đọc bài phương pháp chữa bệnh Seignalet
Chứng minh cây trồng phân hữu cơ sẽ dinh dưỡng cao hơn vì không làm chết vi khuẩn tạo ra B12 cho cây. Trong ruột người cũng có vi khuẩn để tạo ra B12 cho cơ thể. Ăn nhiều đường có thể làm chết các men vi sinh trong ruột
Vậy con muốn hỏi TẬP VÕ nên ăn đường trong bữa ăn trưa, ăn xong sau 30 phút kéo ép gối 600 lần để tiêu hóa đường trong máu rồi sau đó chiều tập võ không cần ăn đường nữa

Trả lời :

Có 3 nguyên tắc khi dùng đường :

Đo áp huyết 2 tay trái và phải. Số thứ nhất là khí lực/số thứ hai là Huyết/số thứ ba là nhịp tim, chỉ cơ thể nóng hay lạnh do sự trao đổi khí lực và Huyết tạo ra nhiệt lượng làm nhịp tim dập đúng tiêu chuẩn và bàn tay không nóng không lạnh.
Ngược lại nhịp tim nhanh mà tay chân lạnh, hay nhịp tim chậm mà chân tay nóng, là đường trong máu chuyển hóa nghịch, nên cần phải dùng máy đo đường thực tế xem đúng tiêu chuẩn không, từ 6.0-8.0mmol/l khi bụng đói, từ 8.0-12.0mmol/l khi bụng no.

Sau khi ăn 30 phút, chọn bài tập khí công để chuyển hóa thức ăn và đường, mỡ trong máu, lệ thuộc vào áp huyết cao thì tập bài Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng thật chậm 600 lần làm hạ áp huyết, hoặc tập rất nhanh làm tăng áp huyết khi áp huyết thấp.

Nhưng công dụng của bài tập là : Khi ép đầu gối bên trái vào bụng bên bao tử làm co bóp bao tử 600 lần nhồi thức ăn thành lỏng, nhận sức nóng của tim làm chín nhừ thức ăn, nhận oxy từ phổi biến thức ăn thành dưỡng trấp trôi hết xuống ruột non, ép sát 2 chân vào bụng làm co bóp thận lọc chất bổ của dưỡng trấp thành máu, nhồi bên gan bơm máu cũ lên tim tuần hoàn, nhận máu mới từ thận đã lọc về gan, nhồi gan bơm máu lên tim nhận oxy từ tim đem máu nuôi các tế bào trong cơ thể.
Tuy nhiên, trước khi tập phải đo đường trong máu, nếu thấp dưới 6.0mmol/l, theo tây y là tốt, nhưng khi tập đường sẽ tụt thấp khi cho ra năng lượng và nhiệt lượng để chuyển hóa thức ăn, sẽ tụt xuống còn 4.0mmol/l nên bị mệt không thể tập được, nên phải uống thêm đường cho tăng lên 7-8.0mmol/l.
Nếu đường đã cao sẵn thì không cần uống thêm đường mà chỉ tập thôi.
Đối với người mập, có nhiều mỡ bụng, thì không cần phải uống đường, mặc dù thử đường thấp, vì đường nằm trong mỡ khi tập người nóng tan mỡ bụng, thì sau khi tập, thử đường có thể tăng lên hơn 10.0mmol/l

Chỉ uống thêm đường trong khi tập chưa đủ số 600 lần mà cơ thể thấy mệt không đủ sức tập nữa là cơ thể thiếu đường, nên cần uống thêm đường mới tập tiếp được. Tập võ cũng vậy, khi mệt mới cần thêm đường.

Trong mọi trường hợp tập xong, phải đo lại áp huyết và đường, người áp huyết cao sẽ xuống thấp, người áp huyết thấp sẽ tăng lên cao, nhưng đường thử lại dưới 6.0mmol/l thì phải ngậm kẹo (mỗi cục kẹo là 1 thìa nhỏ đường) để đường tăng lên, vì trong vòng 30 phút không ngậm kẹo hay uống đường, thì đường sẹ tụt thấp xuống 4.0mmol/l bị té xỉu như người bị trúng gió và làm mất năng lượng, kiệt sức, suy tim mạch, vì thiếu đường cho cơ van tim co bóp hoạt động.

Đường cho năng lượng nuôi thịt và cơ bắp, còn thức ăn là dưỡng trấp chuyển hóa thành máu trong máu vẫn giữ lượng đường 6.0-8.0mmol/l, và men trong ruột non chuyển hóa chất bổ đủ loại thấm qua màng ruột non theo mao quản li ti vào các ống mạch, theo máu đen về thận lọc máu chuyển máu về gan, gan đưa máu lên tim, nhận oxy từ phổi thành máu đỏ lại tuần hoàn tiếp tục.

Mục đích bài viết này giúp cho qúy vị nào muốn ăn gạo lức muối mè để chữa bệnh nên nghiên cứu công dụng, để áp dụng cho đúng hầu tránh hậu qủa nguy hiểm chết người khi vào bệnh viện cấp cứu thì tây y không còn cứu kịp.

3-Biết chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn tốt hay xấu :
Theo lý thuyết đông y khi chúng ta biết đói là do chức năng gan làm việc trước để tiết chất chua và mật sang bao tử khiến chúng ta xót bụng, bị đói, muốn ăn, như vậy khi đo áp huyết bên tay phải thuộc chức năng gan thì áp huyết đo bên tay phải cao ở mức tối đa trong tiêu chuẩn tuổi, áp huyết đo bên tay trái thuộc chức năng bao tử chưa ăn bụng đói thì áp huyết sẽ ở mức tối thiểu trong tiêu chuẩn.
Thí dụ tuổi trung niên áp huyết là : 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75
Khí lực 120 là tối thiểu, số 130 là tối đa trong tiêu chuẩn tuổi.
Có 3 trường hợp theo dõi áp huyết để biết chức năng hấp thụ chuyển hóa tốt hay xấu :
a-Chức năng hấp thụ chuyển hóa thuận được bao nhiêu phần trăm :
Khi bao tử đầy, đo áp huyết bên tay trái sau khi ăn no sẽ tăng cao ở mức tối đa, bên gan nghỉ ngơi áp huyết hạ xuống mức tối thiểu, và độ chênh lệch 10mmHg thì sau 4 tiếng đồng hồ, thức ăn trong bao tử được chuyển hóa hết, áp huyết trong gan lại sẽ tăng tối đa làm bao tử đói, và áp huyết trong bao tử lại hạ thấp tối thiểu để lại thèm ăn, như vậy là chức năng hấp thụ và chuyển hóa thuận đúng quy luật.
Nếu 2 tay áp huyết chênh lệch 5mmHg thì chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn giảm một nửa, thí dụ bao tử chứa 500g thức ăn, nếu chuyển hóa được một nửa, thì thức ăn còn đọng lại trong bao tử 250g, tích lũy lâu ngày trong bao tử sẽ tăng nồng độ acid làm ợ chua, ợ chất đắng lên họng, đưa khí lên tim làm tăng áp huyết và phần còn lại kết khối đóng cục cứng trong bao tử, sờ ấn ở bụng thấy đau ở một chỗ, lâu ngày thành ung thư bao tử, phải cắt một phần bao tử nơi bướu do thức ăn dư thừa thối loét tạo ra bướu đó.
Lý do chức năng hấp thụ và chuyển hóa ít, do ăn qúa no dư thừa, hay vẫn ăn như bình thường mà khí lực của vị khí co bóp hết năng lượng co bóp, do thiếu đường chuyển hóa, đo đường-huyết sẽ thấy thấp dưới tiêu chuẩn.
b-Chức năng hấp thụ chuyển hóa nghịch :
Ngược lại, chức năng bao tử và gan hoạt động không đồng bộ thì khi bụng đói, đo áp huyết bên trái vẫn cao ở mức tối đa, áp huyết bên gan ở mức tối thiểu là gan chưa tiết mật và acid, nhưng sau khi ăn, gan mới tiết mật và acid để làm tiêu thức ăn cũ nên chúng ta đo áp huyết sau khi ăn thì áp huyết bên gan lại tăng cao, áp huyết bên bao tử lại xuống thấp, có nghĩa là thức ăn vừa ăn vào bao tử thì bao tử lại nghỉ không làm việc nữa. Nếu không theo dõi bằng máy đo áp huyết chúng ta cũng biết được, sau khi ăn thì cơ thể mệt, buồn ngủ, đó là bao tử muốn nghỉ dưỡng sức.
Đông y gọi bệnh này là gan-tỳ bất hòa, khi ăn xong thì đau tức hông sườn, là bệnh do chức năng tiết mật và acid của gan. Nguyên nhân do gan có bệnh như thiếu máu, thiếu mật, gan teo, gan sưng...

c-Tử vong sau khi ăn do chức năng hấp thụ và chuyển hóa không làm việc :
Mặc dù chúng ta vẫn uống thuốc trị bệnh áp huyết hay bệnh tiểu đường, nhưng chúng ta không lưu tâm đến việc đo áp huyết trước và sau khi ăn, nên bị chết oan uổng.
Thí dụ trước khi ăn đo áp huyết bên tay trái đúng ra là phải ở mức thấp tối thiểu, bên tay phải ở mức cao tối đa trong tiêu chuẩn tuổi, nhưng nếu đến giờ ăn buổi chiều mà áp huyết tay trái đã cao ở mức tối đa 140, là chức năng chuyển hóa thức ăn bữa sáng không làm việc, không chuyển hóa, nên sau khi ăn thêm bữa cơm chiều xong thấy khó chịu, tức bụng, mệt buồn nôn ói ra thức ăn, xuất mồ hôi, tưởng trúng gió, trúng cảm, nhưng không đo lại áp huyết lúc đó đã tăng 160, sau khi nằm nghỉ 1 đêm thấy tạm ổn, sáng dạy uống thuốc trị áp huyết, trị tiểu đường rồi ăn sáng bỗng nhiên gục đầu xuống bàn tắt thở, do hai nguyên nhân : ăn thêm vào khiến bao tử không tiêu làn tăng áp lực bao tử chèn ép tim ngực làm khó thờ, làm tăng áp huyết lên trên 200mmHg, uống thuốc hạ đường làm bao tử không chuyển hóa được vì thiếu nhiên liệu của tỳ-vị là chất ngọt.
Cách đề phòng bệnh :
Trong trường hợp đo áp huyết trước khi ăn mà áp huyết bên tay trái đã cao, thì nên bỏ bữa ăn đó, hay ăn cháo lỏng với đường thẻ, nó không làm đầy và no hơi nên áp huyết không bị tăng, và có đường làm tăng nhiệt cho bao tử làm việc co bóp, nếu sáng hôm sau áp huyết tay trái chưa xuống ở mức tối thiểu thì ăn cháo tiếp, thử đường nếu thiếu, thì ăn cháo với đường, còn đủ đường thì không cần ăn thêm đường, như vậy gọi là ăn cháo nhạt, đông y có câu : Nhạt tháo thấp, có nghĩa là ăn nhạt thì những thức ăn ứ đọng đình trệ gây ra khí ẩm thâp hàn hay ẩm thấp nhiệt bị tống ra khỏi cơ thể. Đông y cũng có loại thuốc theo toa cổ truyền căn bản làm thành thuốc viên uống có tên là : Kiện Tỳ Dưỡng Vị Hoàn (Jian Pi Yang Wei Tablets, đánh chữ này lên Internet sẽ thấy nhiều hãng thuốc bán), nó làm tiêu thức ăn trong bao tử, làm hạ khí làm hạ áp huyết và hạ đàm, thức ăn được chuyển hóa thành máu.

4-Khám phá ra nguyên nhân sạn mật :

Khi đo áp huyết tay trái thuộc tỳ-vị và tay phải thuộc gan mật, so sánh nhịp tim hai bên khác nhau nhiều, theo đông y nhịp tim chì hàn-nhiệt trong cơ thể, thì nhịp tim bên tay trái bình thường thí dụ 70, nhưng nhịp tim bên tay phải thấp hơn chỉ có 60-65 là hàn, bệnh nhân đau tức dưới sườn nơi vị trí túi mật cứng, chụp hình thấy 1 khối to bằng ngón tay cái, tây y kết luận là sạn mật cần phải mổ cắt bỏ tui mật.
Nhưng trường hợp này Y Học Bổ Sung cần thử đường-huyết thấy thấp dưới 5.0mmol/l làm cơ thể thiếu nhiệt, mật đặc cứng lại không tiết mật.
Cách chữa :
Chỉ cần uống thêm đường, tập bài Kéo Ép Gối vào Bụng 600 lần để thông khí toàn thân, làm ấm nóng người, đo lại áp huyết số thứ 3 nhịp tim tăng bằng nhau, thí dụ như 70-72, sờ vào túi mật hết cứng đau, vì mật từ chất đặc biến thành chất lỏng, sẽ tiết mật cho tiêu hóa dễ dàng, nhiều người tập theo KCYĐ đã thoát khỏi bị mổ cắt bỏ túi mật oan uổng..
Còn người đã cắt túi mật, thì đo máy Quest, chỉ số bơm máu ở đưởng kinh Mật ngón chân thứ 4 bên phải, hiện ra con số 0.5 không có biến đổi tăng giảm, còn ngón chân thứ tư bên chân trái chỉ chức năng tiết mật của lá gan, vẫn hiện ra số từ 1.1 đến 2.5 là chức năng tiết mật yếu, nhưng có tăng giảm số chứ không đứng nguyên là 0.5.
5-Khám phá ra bệnh nhân có gắn máy trợ nhịp tim trong người :
Khi đo áp huyết bên tay trái lúc nào cũng có nhịp tim thấp dưới 70 không thay đổi, thì dụ như 65, nhưng tay mặt thay đổi luôn luôn thấp hơn hay bằng tay trái, thí dụ như 55-65. Tại sao vậy, bởi vì nhịp tim đập bên tay trái có đặt máy trợ nhịp tim với nhịp cố định 65 lần /phút được đặt trong hõm vai trên phổi bên trái. Có nghĩa là bệnh nhân bị suy tim, mạch đập chỉ có 60 làm mệt nên dùng máy trợ nhịp tim lên với tốc độ 65 để tim bơm máu tuấn hoàn đều. Khi mới đăt máy trợ tim thì mạch 2 tay tương đương gần nhau từ 63-65, nhưng vì không chữa gốc nguyên nhân tại sao nhịp tim mạch thấp dần, như vậy mạch thấp dần mới là tình trạng thật của sức khỏe, thí dụ nhịp tim 60, trong khi nhịp tim bên tay trái vẫn giữ nhịp tim đèu 70 nhịp, đó là nhịp của máy trợ tim.
Nếu hai bên tay có nhịp mạch chênh lệch, tay bên phải thấp nhiều xuống 50 mà bên tay trái vẫn giữ nhịp 65 thì bệnh nhân mau suy tim, người rất mệt khó thở, tây y phải đổi máy trợ thở có tốc độ bơm thấp hơn là 55, như vậy chưa phải là chữa vào nguyên nhân gốc gây ra bệnh do thiếu lượng máu, và thiếu vận động khí để trợ giúp cho nhịp tim đập nhanh, nếu tiếp thêm máu, ăn thêm những chất bổ máu và tập vận động sao cho nhịp tim đập nhanh vượt cao hơn tốc độ đập bơm máu của máy thì máy trợ tim sẽ tự động ngưng nhờ tập luyện khí, thì đo áp huyết cả hai cánh tay nhịp tim cao hơn 70, lúc đó máy trợ tim sẽ tự động ngưng chứ không phải máy bị hư.
Cách chữa :
Vào internet đánh chữ : Video Vỗ Tay 4 Nhịp, và video Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng, rồi tập theo mỗi ngày cho đến khi nhip tim hai bên tay cao hơn máy và trở lại nhịp bình thường 70-80 là khỏi bệnh.

6-Biết trước dấu hiệu bệnh đột qụy để phòng ngừa ( stroke)
Nhiều người có bệnh cao áp huyết biết nguy cơ của tai biến đột qụy, nhưng có Muốn đề phòng tai biến đột qụy (stroke) cần phải theo dõi đo áp huyết sau mỗi bữa ăn thì lại lười, chỉ ỷ lại vào bác sĩ và thuốc, mà không biết rằng mình sắp bị tai biến.
Dù có uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết, cholesterol, hay aspirine là loãng máu hay không, chúng ta tin vào thuốc và tin vào máy đo áp huyết thông thường vào mỗi buổi sáng thấy áp huyết ổn định dưới 140mmHg, nên đôi khi lơ là không cần đo. Nhưng chúng ta không biết rằng áp huyết thường tăng cao sau khi ăn no đầy hơi, không tiêu, hay sau khi uống 1 lon Coke, ăn vài trái hồng, sầu riêng, mít, nhãn, xoài...đã làm tăng áp lực khí lên tim, hay sau một trận cười lớn tiếng, hay sau một cơn giận dữ, hay sau một cái với tay lên cao lấy đồ vật...., đều có ảnh hưởng đến cơ co bóp của tim làm thay đổi áp huyết tăng cao.
Có nhiều bác sĩ hay dược sĩ cười mình, bảo mình điên hay sao mà cứ đo áp huyết trước và sau khi ăn hoài vậy, chỉ cần đo mỗi sáng là đủ rồi. Nhiều bệnh nhân bị tai biến dẫn đến tử vong, có con cháu là bác sĩ dược sĩ đầy nhà, vẫn theo dõi áp huyết cho bố mẹ hàng ngày mà không để ý cơn đột qụy chỉ xẩy ra sau khi ăn no đầy hơi không tiêu làm tăng áp huyết, hay sau bữa cơm chiều tối, sáng ngủ dậy mới biết đột qụy. Các cụ có bệnh cao áp huyêt, uống thuốc trị cao áp huyết rất ổn định, nhưng sau khi ăn vài múi sầu riêng hay vài trái hồng thì gục xuống bàn ăn, tưởng là do nghẹn, người bủn rủn như trúng gió...có ngờ đâu mỗi múi sầu riêng hay 1 trái hồng làm áp huyết tăng lên 10mmHg, ăn nhiều thì áp huyết tâm thu tăng nhiều đột ngột lên đến 180-200mmHg đứt mạch máu não.
Mọi người bỏ qua không chịu đo áp huyết sau mỗi bữa ăn, để biết chức năng gan mật, lá lách và bao tử có làm nhiệm vụ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn có tốt hay không. Nếu chức năng hấp thụ và chuyển hóa tốt thì trước khi ăn áp huyết tay trái bên bao tử phải rỗng là đói, thì áp huyết thấp tối thiểu 130mmHg, bên tay phải áp huyết tối đa cao 140mmHg là gan đang làm nhiệm vụ tiết mật và chất chua cho bao tử biết xót và đói đòi ăn. Nhưng sau khi ăn thì bao tử no, áp huyết tăng tối đa 140mmHg, bên tay phải gan nghỉ ngơi áp huyết xuống thấp tối thiểu 130mmHg,
Chênh lệch áp huyết 2 tay là 10mmHg thì sự chuyển hóa mạnh nhanh 100%, chệêh lệch ít thí dụ 3mmHg thì chuyển hóa có 30%, thức ăn còn đọng lại trong bao tử lên men làm đầy hơi, ợ hơi, sẽ làm tăng áp huyết, lâu ngày bao tử nóng bị loét bao tử, thức ăn cũ ứ đọng trong bao tử mà bao tử không đủ lực co bóp tống nó ra ngoài thì đáy bao tử cứng dần làm đau khi ấn vào, vài năm thành bệnh ung thư bao tử phải cắt bỏ 1/3 bao tử.
Ngược lại áp huyết sau khi ăn, đo bên bao tử tay trái lại xuống thấp, bên tay phải là gan lại lên cao là chức năng bao tử sau khi ăn vào thì bị liệt nó không đủ sức làm việc, nên khiến mình buồn ngủ. Đó là chức năng chuyển hóa nghịch thành bệnh ăn không tiêu. Sau khi ăn, tiêu hóa tốt thì áp huyết bên tay trái cao 140mmHg sau 4 tiếng áp huyết tay trái bên bao tử lại đói xuống thấp 130mmHg khiến thèm ăn, đó là chuyển hóa thuận.
Trong trường hợp ăn bữa cơm sáng áp huyết bên tay trái 140mmHg mà đến bữa cơm chiều áp huyết tay trái không xuống vẫn còn cao 140mmHg, có khi bao tử lên men làm đầy hơi dội khí lên tim làm áp huyết cao hơn đến 150mmHg, nếu không đo thì không biết, thay vì cần phải bỏ bữa ăn chiều cho áp huyết đừng tăng cao, nhưng lại ăn vào làm áp huyết tăng cao theo lượng thức ăn và chất bổ của thức ăn, ăn xong làm mệt đi nghỉ ngơi, lúc đó nếu đo áp huyết sẽ thấy đã tăng đến 180mmHg ngủ qua đêm khí bao tử tăng cao lúc đó áp huyết có thể lên tới 220mmHg đút mạch máu não mà không biết không biết vì không đo sau khi ăn, bệnh nhân ngủ say trong giấc ngủ ngàn thu.
Như vậy đột qụy do số tâm thu cao hơn 30-40mmHg trở lên so với tiêu chuẩn tuổi. Để biết cách phòng ngừa, chúng ta nên đo áp huyết sau khi ăn, sau khi giận hay cười làm đỏ mặt, hay sau khi làm việc cảm thấy chóng mặt xây xẩm...
Thí dụ tuổi trung niên áp huyết tiêu chuẩn :120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
Nếu khí lực tăng thêm 30-40mmHg thường xuyên mà uống thuốc không giảm xuống được có nghĩa là đo áp huyết lên tới 160-170mmHg trở lên thì người này còn trẻ cũng vẫn bị stroke.
Tiêu chuẩn áp huyết tuổi lão niên :130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Nếu khí lực tăng thêm 30mmHg có nghĩa là đo áp huyết lên tới 170-180mmHg trở lên
Khi áp huyết vẫn cao như thế thì cơn đột qụy sẽ xẩy ra sau khi ăn no không tiêu, đầy hơi hay ăn bữa tối no sáng ngủ dậy bị stroke..vì áp huyết tăng cao đôt ngột do không thường xuyên đo áp huyết mỗi ngày để biết áp huyết thay đổi theo những thức ăn làm tăng áp huyết như đã kể trên mà không biết.
Cách chữa :
Sau khi đo thấy áp huyết cao như trên, nên uống ngay 1 ly nước chanh đường, chua nhiều hơn ngọt, có thể thay nước lạnh bằng nước soda, perrier, nước suối...và nằm nghỉ, cơ thể buông lỏng không căng thẳng mà tưởng tượng như người thở dài chán đời, tây y gọi là bệnh dep, nhớ há miệng thở nhẹ bằng miệng cho khí thoát ra miệng làm giảm áp lực khí lên đầu và kê đầu cao cho máu không dồn lên đầu thì số tâm thu sẽ giảm xuống. Cần nhịn ăn hay ăn cháo gạo lức nấu lỏng với it đường, dùng trong vài ngày, đừng để táo bón cũng làm tăng áp huyết, nếu bị bón, uống 4-5 viên Senna Laxative để xổ độc trong gan ruột mỗi tuần
Nên tập khí công mỗi ngày 2 lần, bài “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng “ sau mỗi bữa ăn 30 phút, tập chậm từ từ 600 lần giúp bao tử nhồi bóp nhuyễn thức ăn để chuyển hóa tiêu thụ hết 100% thức ăn làm bao tử rỗng, bụng nhỏ lại, và làm hạ áp huyết, hạ đường, thông khì toàn thân, tăng thêm oxy thông máu não.
Vào internet đánh chữ : video “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng “ và tập theo.

7-Biết trước dấu hiệu tai biến nhồi máu cơ tim để phòng ngừa ( heart attack)
Áp huyết của tuổi trung niên và lão niên có dấu hiệu nhồi máu cơ tim.
120-130/100-120 mmHg, mạch tim đập 70-75 hay thấp hơn là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/100-120mmHg, mạch tim đập 70-80 hay chậm hơn là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Khi đo số tâm trương cao hơn 20mmHg trở lên so với tiêu chuẩn tuổi. Khi đo áp huyết thường xuyên có số tâm thu cao hơn 90 dù ở tuổi trung niên hay lão niên, mà số khí lực bình thường, có dấu hiệu thỉnh thoảng đau nhói giữa tim ngực thoáng qua. Bệnh nặng thì dấu hiệu này xẩy ra thường xuyên. Sau khi ăn no không tiêu thì áp lực tâm thu sẽ cao hơn mới bị nhồi máu cơ tim.
Muốn biết trước để phòng ngừa tai biến nhồi máu cơ tim, nên đo áp huyết sau khi ăn, để biết thức ăn nào đã làm số tâm trương tăng hay giảm.
Giai đoạn 1 : Báo hiệu có cục máu đông qua tim.
Đừng nên ỷ lại vào thuốc đang điều trị cholesterol và thuốc aspirin 80mg chống đông máu, nếu thấy có 2 dấu hiệu sau đây :
Khi đo áp huyết máy bị nhồi bơm 2-3 lần mới cho kết qủa, khi máy đo không bị nhồi thì áp huyết thấp, nhưng khi máy bị nhồi thì kết qủa lại bị cao vượt tiêu chuẩn, nhiều người tưởng máy đo bị hư, đi mua máy đo khác cũng bị nhồi như vậy có nghĩa là có cholesterol kết tủa thành caillot (cục máu đông), khi cục máu đông nhỏ qua khỏi tim thì đo áp huyết trở lại thấp bình thường, nên mình bỏ qua.
Giai đoạn 2 : Tim thỉnh thoảng có cơn nhói đau thoáng qua
Khi đo áp huyết thỉnh thoảng vẫn bị nhồi và khi không bị nhồi áp huyết tâm thu vẫn thấp, nhưng tâm trương cao hơn 90-100, tim nhói đau thoáng qua hơi làm khó thở rồi trở lại bình thường.
Giai đoạn 3 : Cơn nhói đau tim tức ngực khó thở như suyễn
Lúc nào đo máy cũng bị nhồi, nhưng kết qủa tâm thu thay đổi thường xuyên không cao hơn 150, nhưng tâm trương mỗi ngày mỗi cao hơn 100, kèm dấu hiệu tức ngực khó thở như suyễn
Giai đoạn 4 : Sắp bị nhồi máu cơ tim gây đột qụy.
Khi đo áp huyết bị nhồi và số tâm trương vẫn cao 110-120mmHg, có nghĩa là đang bị ứ nghẽn máu trong tim, khiến tim tuần hoàn bơm máu chậm, nhịp tim càng chậm, làm thiếu oxy lên não, thỉnhhoáng qua, nhưng số tâm thu còn thấp khoảng 150, cái đau tức ngực đến thường xuyên hơn, nhưng sau khi ăn no cảm thấy khó thở tức ngực, đau tức hông sườn là áp lực tâm thu tăng cao trên 180 đẩy những cục máu đông vào tim mà nó không thoát ra khỏi tim được khiến bị vỡ tim bất thình lình sẽ chết. Những lúc có dấu hiệu này xẩy ra, cần phải đo áp huyết ngay khi thấy số tâm trương cao phải báo cho bác sĩ hay gọi xe cấp cứu .
Cách chữa phòng bệnh :
Cần áp dụng bài tẩy sạn gan mật làm tiêu cholesterol kết tủa thành sạn chứa trong gan và mật, thông ống động mạch tim, áp huyết đo trước và sau khi tẩy sạn gan mật. Áp huyết xuống trở lại bình thường và số thứ hai tâm trương xuống thấp theo tiêu chuẩn tuổi.
Đánh chữ : video tẩy sạn gan mật lên internet có hướng dẫn phương pháp áp dụng.
Sau khi tẩy sạn, kết qủa thu được từ 30-300 cục sạn to hơn ngón tay nhỏ bằng hột đậu đủ mầu, dẻo dai chắc không tan trong nước nhưng tan thành mỡ ở nhiệt độ cao.
8-Đo áp huyết ở hai cổ chân xem thận còn chuyển hóa nước tốt hay không.
Tiêu chuẩn áp huyết đo ở cổ chân trong nơi huyệt Tam Âm Giao, thì số đầu tâm thu là Khí Lực của chân phải cao hơn ở tay 10mmHg so với tiêu chuẩn tuổi, thì chân mạnh khỏe có lực.
Riêng số thứ hai tâm trương ở chân không gọi là lượng máu qua tim, mà gọi là lượng máu trong ống tĩnh mạch chân, nếu lớn hơn tiêu chuẩn là hở van tĩnh mạch chân làm tĩnh mạch chân phình to như mạch lươn, có hai loại phình tĩnh mạch nông và sâu, nông là nhìn thấy những gân máu đen nơi bắp chân nổi vòng vèo, sâu là nằm sâu bên trong không nhìn thấy, nhưng bệnh phình tĩnh mạch chân làm đau nhức chân, phù chân, nặng chân và làm hở van tim, suy tim.
Thí dụ cơ thể có 4 lít máu phân phối toàn thân đi và về đều chạy qua tim, 1 lít máu tuần hoàn vùng thượng tiêu từ ngực lên đầu, ra tay, 2 lít máu tuần hoàn trung tiêu vùng bụng trên rốn, 1 lít máu tuần hoàn vùng hạ tiêu dưới rốn xuống hai chân, nhưng khi tĩnh mạch chân phình, cơ bắp co bóp ở chân không vận động đi lại để bắp chân ép vào tĩnh mạch đẩy máu đen trả về tim nhờ những van trong ống tĩnh mạch, nên lượng máu qua tim bị thiếu hụt khiến cho van tim và cơ qủa tim phải tăng sức co bóp đẩy màu đi và hút máu về qúa sức chịu đựng của cơ tim, nên tim cũng bị phinh to làm hở van tim.
9-Đo áp huyết ở chân biết được phình tĩnh mạch chân do uống lượng nước dư thừa.
Nếu không phải là người mang bầu, khi đo áp huyết dưới chân cao hơn tiêu chuẩn thí dụ như chân trái đo được :
200/120mmHg nhịp mạch chân hoặc thấp như 60, hoặc cao như 100, các con số có nghĩa là :
a-Nếu số đo này ở bên chân trái thì khí lực 200mmHg là khí bị đè ép ở động mạch háng, do xệ ruột bởi nhiều nguyên nhân như bụng dưới to giống như có bầu, bụng nhiều mỡ, bụng hay ruột chứa nhiều nước, bệnh phình liệt khúc ruột trực trường chứa nhiều nước, nhiều phân mà vẫn bị táo bón, vì ruột mất đàn hồi co bóp để đẩy phân.
Số thứ hai 120 là hở van tĩnh mạch chân làm các tĩnh mạch sau bắp chân nổi gân xanh đen chằng chịt ngoằn ngoèo gây sưng phù đau nhức, đầu gối có nước.
Cách chữa phình tĩnh mạch chân :
Dùng cuộn băng quấn bụng loại thung co giãn (élastic), quấn chặt vào 2 bắp chân bó bắp chân cho các van tĩnh mạch hẹp lại, dùng kim thử tiểu đường châm nặn máu 5 đầu ngón chân, rồi tập bước lên xuống cầu thang mục đích làm cho bắt thịt chân khi cử động ép vào tĩnh mạch chân để máu đen trong mỗi đoạn van chân đẩy dồn máu lên trên về tim, và máu ứ đọng ở chân chảy thoát ra các ngón chân. Khi bó chân bằng băng cuốn thì tập lên xuống cầu thang hay đi lại làm việc trong nhà, không nên ngồi 1 chỗ, máu bị bó chặt không cử động sẽ không lưu thông được, tối khi đi ngủ hay đi tắm thì tháo băng ra. Quấn băng và đi lại làm việc bình thường khi tháo băng không còn thấy gân xanh nổi lên và đi hết đau thì không cần dùng đến băng nữa, nhưng nhớ rằng nguyên nhân phình tĩnh mạch là do uống nước nhiều, nằm ngồi 1 chỗ không đi lại thì máu ứ trong ống tĩnh mạch không được bắp chân co bóp về tim sẽ ứ đọng lại làm phình tĩnh mạch, khí đó lại phải bó bắp chân làm cho ống tĩnh mạch hẹp lại thì van tĩn mạch mới đóng chặt lại được.
10-Biết được bệnh đau đầu gối do ứ nước.
Khi áp huyết ở chân cao như trên.
Nếu số thứ ba chỉ nhịp mạch ở chân thấp 60 là chân lạnh không có cảm giác, cứng chân, đùi, sờ đầu gối thấy lạnh phình to ra do ứ nước, đau bên trong đầu gối, hay bàn chân sưng, ấn ngón tay vào cổ chân thấy lõm ...khó cử động, móng các ngón chân xanh đen, nếu châm nặn máu sẽ ra máu đen là máu không tuần hoàn trao đổi oxy.
11-Biết được dấu hiệu bệnh hoại tử.
Nếu áp huyết ở chân cao và số thứ ba lúc nào cũng cao hơn 100 làm chân bị nóng thường xuyên, và số thứ nhất cao do háng bị chèn ép máu không lưu thông trao đổi oxy, máu nơi chân trở thành thấp nhiệt làm hư hại da nổi đỏ bầm, nếu đo đường cao ở những nơi đỏ bầm dư đường-huyết cao hơn 20mmol/l sẽ bị thối thịt phải cưa chân.
12-Biết nguyên nhân đĩa đệm lưng bị chèn ép đau lưng, sa xệ ruột làm sưng tuyến tiền liệt hay sa tử cung làm bí tiểu.
Nếu số áp huyết ở hai chân qúa cao, do uống qúa nhiều nước làm cho bụng to như người có bầu sắp sanh, cũng có nghĩa như trên nhưng bệnh nặng thêm vì cả ruột già và bọng đái dư nước bị phình to. làm sưng tuyến tiền liệt, chèn ép van tiểu làm bí tiểu, tiểu khó, khi đứng hay đi bụng bị xệ kéo dây chằng làm sa tử cung ở phụ nữ, bí tiểu, kéo ép các đĩa đệm nơi cột sống lưng bị chèn ép làm thoái hóa đốt sống lưng, đau lưng, đau thần kinh tọa. Khi bệnh nhân nằm úp, dùng bàn tay ấn đè vào vùng thận, thấy hai thận phình to nổi cộm trên lưng, nhưng ấn không đau là thận ứ nước, ấn ngón tay vào cổ chân thấy lõm xuống không phình lên ngay là dư âm thừa nước thiếu khí, phân biệt với bệnh khí ấn ngón tay da lõm xuống nhưng phình lên ngay là có khí nhưng bị tắc khí, đông y gọi là phù khí..
13-Biết nguyên nhân sạn thận và bàng quang .
Đo áp huyết ở chân có số thứ ba thấp 60 là thận và bàng quang bị hàn bí tiểu, làm cặn nước tiểu kết thành sạn thận và sạn bàng quang, tiểu ra nước trắng đục. Nếu số thứ ba cao 100 thì thận và bàng quang nhiệt, tiểu ra mầu vàng đậm hay ra lẫn máu. Khi bệnh nhân nằm úp sờ bàn tay vào thận, thấy thận nổi cộm, và khi ấn vào thấy đau bên nào là bên thận đó có sạn.
Dấu hiệu có sạn thận làm thỉnh thoảng đau từ lưng vòng sang rốn hay đau từ rốn vòng ra sau lưng, lúc đau thì đi không được, khi đi sẽ bị đau thêm và lúc đó không nói to hay cười được sẽ bị đau thêm, thỉnh thoảng bí tiều, tiểu rắt, nước tiểu có lẫn máu là sạn đã lớn.
Cách chữa và phòng ngừa :
Ra tiệm thuốc bắc mua 1 lọ thuốc viên Kim Tiền Thảo ( Cỏ đồng tiền), tối trước khi đi ngủ uống 5 viên, ban đêm thuốc làm cho sạn mềm như trứng gà non còn trong bụng gà, khi gà đẻ ra thì vỏ trứng mới cứng, uống 5 viên buổi sáng trước khi đi tiểu, thuốc sẽ làm vỡ vỏ bọc sạn ra nước, khi đi tiểu nước tiểu đục như nước gạo. Uống mỗi ngày cho đến khi nước tiểu trong, hết vẩn đục, lưng và bụng hết đau, thử cười to thoải mái xem khi cười hết đau là khỏi bệnh.
Có thể kiểm chứng theo tây y, khi chụp hình có sạn, được bác sĩ cho hẹn ngày mổ lấy sạn, trong thời gian đợi mổ, uống Kim Tiền Thảo hết 1 lọ, thấy nước tiểu ra vẩn đục cho đến hết vẩn đục mà ra nước tiểu trong, đi đứng không thấy đau, cười nói lớn tiếng không đau, đến ngày hẹn đi mổ thì xin khám lại trước khi mổ để khỏi bị mổ oan, sẽ thấy kết qủa trong thận không còn sạn.
14-Bệnh suy tim hay hôn mê do ngộ độc nước.
Tuy nước không có chất độc, nhưng khi uống nhiều nước làm tăng áp huyết rối loạn tim mạch hay làm rối loạn chất điện giải gây hôn mê gọi là ngộ độc nước cũng dễ bị chết, còn uống quá nhiều nước thận không chuyển hóa kịp thì thận trương nở to, tây y gọi là thận ứ nước không có sốt khi nhịp mạch thấp 60, mất chức năng co bóp vào, làm đau cứng lưng, bệnh nhân nằm úp nhìn thấy rõ hai thăn thịt vùng thận nổi cứng trên lưng, nếu nhịp mạch cao hơn 120 có sốt, tiểu có lẫn máu là dấu hiệu ung thư thận, theo mạch học đông y có tên bệnh là thận tích thủy có dấu hiệu bụng to, rốn sưng, eo lưng đau, bộ sinh dục ẩm ướt có mồ hôi, tiểu không được, thận là âm, nước là âm, 2 âm thành dương hàn không vận hành bị tắc nghẽn không lên thượng tiêu, nên mặt ốm, từ bụng xuống chân lạnh to phình.
15-Đi hay bị té ngã, chân yếu không có sức do áp huyết ở tay và chân qúa thấp.
Khi đo áp huyết dưới chân thấp hơn tiêu chuẩn tuổi cũng xét theo kết qủa 3 số : Khí lực thiếu không có lực ở chân, chân không có sức, số thú hai không đủ máu xuống chân nếu thấp cả hai chân, còn thấp một bên là tắc nghẽn máu xuống chân làm máu đỏ xuống chân thiếu nên không đủ máu đen trở về tim làm van tĩnh mạch chân co nhỏ hẹp lại gây ra đau nhức buốt chân dọc theo đường đi của tĩnh mạch làm như đau những thần kinh trong chân khiến bắp chân teo dần.
Áp huyết cả tay và chân thấp có hai nguyên nhân :
a-Do lạm dụng thuốc trị áp huyết mà tây y không có áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi, cứ uống thuốc suốt đời làm áp huyết tụt thấp dưới 100mmHg xem là tốt, thì sức lực chỉ còn bằng đứa trẻ 5 tuổi nên chân yếu.
b-Do kiêng ăn sợ bệnh cao áp huyết và tiểu đường, lại ăm thêm gạo lức muối mè làm tăng dương mà không hiểu âm dương trong con người mình thừa hay thiếu.
Người mập là dư âm (dư máu, dư mỡ) thiếu dương (khí lực), người ốm là dư dương thiếu âm (thiếu máu, mỡ). Người không mập không ốm là âm-dương trong cơ thể quân bình.
Như vậy người mập dư máu hay mỡ) thì ăn gạo lức muối mè làm tăng dương mất âm, người sẽ nhỏ lại, tiêu mỡ, áp huyết cao thành thấp, khi áp huyết lọt vào tiêu chuẩn tuổi thì ngưng.
Người ốm cần ăn thêm chất bổ máu làm tăng âm cho mập lên, làm áp huyết thấp tăng lên vừa phải, khi lọt vào tiêu chuẩn tuổi thì ngưng.
Nhiều người không hiểu âm dương trong con người cứ tưởng ăn dương gạo lức muối mè nhiều càng tốt cho đến khi áp huyết xuống thấp dưới 90mmHg cơ thể mất âm dư dương, mất da thịt teo cơ bắp tay chân, vô lực chân tay yếu hay bị té ngã và thiếu âm huyết biến chứng thành nhiều bệnh dẫn đến tử vong
16-Bệnh Parkinson giả :
Bệnh Parkinson là bệnh thần kinh bị va chạm, hay tắc nghẽn làm chân tay co giật run, mất kiểm soát, dù để tay lên bàn có điểm tựa mà tay vẫn bị run giật, đầu vẫn bị lắc, chân vẫn bị run.
Còn tay chân đi đứng run lẩy bẩy do thiếu máu áp huyết thấp, thiếu sức, tây y thấy run giật vẫn cho là bệnh Parkinson, nhưng thật ra là áp huyết thấp do thiếu khí lực, thiếu máu nuôi dưỡng thần kinh, vì khi đặt tay xuống bàn có điểm tựa thì hết run giật, khi ngồi chân hết run giật, khi đi chân mới run giật, do nguyên nhân áp huyết thấp thiếu máu và thiếu đường, bởi lạm dụng thuốc trị cao áp huyết và thuốc trị tiểu đường khiến áp huyết xuống qúa thấp và đường-huyết xuống thấp.
Cách chữa :
Cần theo dõi áp huyết, nếu thấy thấp thì ăn những thức ăn bổ máu, tiêm B12, uống thuốc bổ Multivitamines, tập luyện Kéo Ép Gối để chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu, ăn thêm ngọt trong bữa ăn, sau khi ăn đường-huyết nằm trong tiêu chuẩn 8.0-12.0 mol/l, sau 4-5 tiếng đường huyết xuống trở lại như lúc bụng đói từ 6.0-8.0mmol/l là chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn tốt, không phải bệnh tiểu đường.

17-Muốn biết trước dấu hiệu ung thư gan và bao tử để phòng ngừa

Khi đo áp huyết bên bao tử số khí lực (tâm thu thấp), máu qua tim ( tâm trương thấp) và nhịp tim qúa thấp hay qúa cao so với tuổi, không thay đổi trước hay sau khi ăn, có nghĩa là không có độ chênh lệch nào sau khi ăn, là cơ co bóp của bao tử không làm việc, nên ăn không tiêu, chán ăn, không muốn ăn, thức ăn cũ còn lại trong bao tử không được co bóp trôi xuống ruột non, trở thành thức ăn hôi thối đóng cứng, ấn tay vào bao tử bị đau, gây tổn thương các tế bào bao tử trở thành bướu, phải cắt bỏ một phần bao tử.
Đo áp huyết bên gan cũng không thay đổi trước và sau khi ăn là gan có dấu hiệu không co bóp, nếu khí lực cao hơn tiêu chuẩn là có dấu hiệu chai gan, sưng cứng, ấn đè tay thay đau, ngược lại khí lực thấp là gan teo thì không cung cấp đủ máu cho tim tuần hoàn làm huyết qua tim thiếu.
Đó là những dấu hiệu báo trước tình trạng bệnh nan y trải qua năm tháng mà tây y thử máu chưa tìm ra bệnh, cuối cùng mới trở thành bệnh ung thư.
Cách phòng ngừa đừng để qúa trễ :
Sau khi ăn 30 phút tập bài “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng” từ 300-600 lần phục hồi lại chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn khi đang bị ung thư, công dụng của bài tập làm tăng Khí Lực, Uống thêm thuốc bổ máu B12, ăn những thức ăn bổ máu dạng lỏng dễ tiêu làm tăng lượng máu qua tim, thì khí đủ sẽ đẩy máu tuần hoàn nuôi khắp các tế bào trong cơ thể, và phục hồi tế bào bệnh, bài tập làm tăng thêm lượng oxy tiêu diệt tế bào ung thư, siêng năng ăn uống tẩm bổ và tập bài trên trong thời gian 3-6 tháng sẽ thoát qua cơn nguy hiểm, tế bào ung thư biến mất dần, nhưng vẫn tập luyện diều chỉnh ăn uống cho đến bao giờ áp huyết hai tay trở lại tiêu chuẩn tuổi có độ chênh lệch 2 tay là 10mmHg thì cơ thể mới hoàn toàn bình phục.
Người không có bệnh cũng nên tập mỗi ngày sau khi ăn cơm được 30 phút, thì không cơ thể khỏe mạnh không lo bệnh tât.
Vào Internet đánh chữ : Video Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng, và tập theo.
18-Biết trước nguyên nhân các bệnh ung thư và Ung Thư Máu để phòng ngừa.
A-3 Yếu tố của bệnh ung thư :
a-Yếu tố Tinh là số tâm trương:
Số tâm trương theo đông y là những thức ăn thuốc uống tạo ra máu, và lượng máu nhiều hay ít, dư hay thiếu làm số tâm trương cao hay thấp so với áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi của mỗi người.
Khi nhìn kính hiển vi xét 1 tế bào gồm có khổng chứa oxy là Khí, chứa chất lỏng là máu và nước, đông y gọi chung là Huyết, trong máu có vị ngọt là đường cung cấp năng lượng hoạt động cho tế bào, và vị mặn là muối để điều hòa môi trường nhiệt giúp cho sự thẩm thấu trao đổi oxy dễ dàng, và tùy theo loại tế bào chức năng chứa những hợp chất phù hợp thu được từ thức ăn để làm nhiệm vụ nuôi gân,xương, răng, râu tóc, da thịt.... Tỷ lệ chất ngọt được tìm thấy nhiều nhất trong cơ thể là ở bắp thịt và trong xương, thịt thiếu đường thì teo, nhão, còn xương bị thiếu đường làm loãng xương khi té ngã hay va chạm mạnh sẽ gẫy xương.
Thời Trung Cổ La Mã nhiều nhà trí thức học giả đều công nhận trái đất vuông, chỉ có 1 học giả vừa là nhà thiên văn vừa là nhà toán học Galileo Galilei nói qủa đất tròn, trái ngược với Giáo Hội La Mã nên phải bị tử hình, nhưng sự thật vẫn là sự thật, nhờ tin vào qủa đất tròn mà ông Christophe Colombo cứ cho tầu đi thẳng mãi mà tìm ra được Châu Mỹ, chứ không phải con tầu đi đến tận cùng trái đất hình vuông rồi rơi xuống vực thẳm.
Hiện tượng này ngày nay cũng tương tự, người ta chỉ tin vào Trường Đại Học Hopkin nói gì người ta nghe nấy, nói đường là kẻ thù của bệnh ung thư, nhưng thật sự nửa bán cầu là ngày, nửa bán cầu bên kia là đêm, nửa bán cầu đa số là người giầu có ăn uống dư thừa gây ra bệnh ung thư phần nhiều là người có da có thịt, vì cơ thể qúa dư mỡ, nhiều đường, ăn thêm đường thì đường trở thành độc tố. Nửa bán cầu bên kia là những người nghèo khó, trong người không có thịt, không có đường để mà ăn, thiếu dinh dưỡng, người gầy ốm cũng bị ung thư do thiếu thịt là thiếu máu, thiếu năng lượng là thiếu đường để cho tế bào nuôi gân xương da thịt, nhất là những người nghèo Châu Phi đa số bị ung thư do thiếu dinh dưỡng làm thiếu máu thiếu đường. Nếu trường Đại học Hopkin ở xứ nghèo đói sẽ lại tìm ra nguyên lý đường rất cần thiết cho bệnh ung thư. Ngoài ra, ở những xứ trồng mía, không lẽ họ làm mía sản xuất ra đường mà không hề ăn đường nhiều hơn chúng ta, như vậy chả lẽ họ bị ung thư hết hay sao, chứng tỏ rằng không phải ai ăn đường nhiều cũng đều bị bệnh ung thư hết.
Chúng ta vào xem 1 buổi tập của trường võ thuật đào tạo huấn luyện viên của Quân Đội học võ Đại Hàn, trong quân trường, mỗi ngày tập 8 tiếng, tập ròng rã 1-2 năm, mồ hôi ra nhễ nhại, hỏi xem mỗi ngày họ tiêu thụ bao nhiêu đường. Riêng tôi, hồi còn trai trẻ, tập ít hơn chỉ có vài tháng cũng đã tiêu thụ 500g đường mỗi ngày, cho đến tuổi già vẫn khỏe mạnh vẫn ăn đường mà không bị bệnh tiểu đường.
Lý do ăn đường nhiều mà không bị bệnh tiểu đường:
Công thức đường là C6H12O6, trước khi tập khí công, đo đường 6.0mmol/l, phải uống 2 thìa mật ong hay đường cho đường-huyết tăng lên 9.0mmol/l rồi tập bài Kéo Ép Gối 600 lần cho xuất mồ hôi để biến H12O6 thành 6 lần nuớc 6(H2O) thành mồ hôi, và thổi hơi thán khí CO2 ra, xong thử lại đường-huyết xuống lại cón 5.0-6.0mmol/l thì làm gì có dư đường để bị bệnh tiểu đường. Do đó khi tập luyện thể lực muốn sức dẻo dai không bị mệt cần phải uống đường trước khi tập, nên gọi là đường không có độc vì nó đã được chuyển hóa.
Ngược lại đường rất độc, vô cớ không tập luyện thể lực mà ăn dư đường như những người già trong viện dưỡng lão, thì ăn vào bao nhiêu đo đường lên cao bấy nhiêu.
.Ăn nhiều đường có hại nếu không được chuyển hóa sẽ tự động biến thành chất độc Hexan (hexane) là một hyđrocacbon nhóm ankan có công thức CH3(CH2)4CH3. Chữ “hex” nghĩa là có 6 nguyên tử cacbon trong công thức cấu tạo, còn chữ “ane” cho biết các cacbon này liên kết với nhau bằng liên kết đơn nó cứng giống như nhựa kết khối làm thành khối ung thư (một dạng nấu đường thành caramen bị cháy thành nhựa bám vào thịt hay mỡ đóng cứng thành cục thịt chết gọi là bướu ung thư)
b-Yếu tố Khí là tâm thu :
Là số tâm thu từ thức ăn tạo ra khí lực, từ oxy trong thức ăn, trong đường, tử hơi thở, từ vận động thể lực, có loại khí lực cao nhưng xấu do nhiều đường tạo ra khí nóng ẩm thấp nhiệt, hay tạo ra khí lạnh làm khó thở đông y gọi là thấp hàn, đó là nội khí trong người.
Nếu đã dư thừa nội khí thấp nhiệt lại bị ngoại khí là thời tiết nóng bức ẩm thấp hay khí lạnh của đất ẩm thấp do gió dẫn nhập vào người làm cho bị bệnh phong thấp hàn hay phong thấp nhiệt càng nặng thêm.
Nếu phong thấp nhiệt mà lại ở xứ nhiệt thì bệnh nặng thêm không chữa được phải uống thuốc suốt đời, hay ngược lại bị bệnh phong thấp hàn mà ở xứ lạnh thì bệnh nặng hơn không chữa được phải uống thuốc suốt đời, đó cũng vì mình ở một phần bán cầu nóng hay lạnh mà chịu mang bệnh khổ suốt đời. Muốn chữa khỏi, không cần uống thuốc suốt đời, người bị bịnh phong thấp nhiệt dư thừa cần đi sang xứ lạnh thì bệnh biến mất, ngược lại bệnh phong thấp lạnh cần đi sang ở xứ nóng bệnh tự nhiên biến mất.
c-Yếu tố nhịp tim :
Ảnh hưởng đến thức ăn nhiều đường hay ít đường, để tạo ra khí lực có đủ hay thiếu để đẩy máu tuần hoàn nhanh hay chậm, tạo ra nhịp tim, nên nhịp tim liên qua đến nồng độ đường trong máu thuận hay nghịch trong sự hấp thụ và chuyển hóa, do có tập luyện khí lực hay không.
B-Hình thành bệnh ung thư máu ở trẻ em  :
Theo công thức máy đo áp huyết hiểu theo nghĩa : Khí lực oxy/ Máu/Đường
Gốc bệnh ung thư máu ở trẻ em chính là do tinh cha huyết mẹ thiếu, thiếu máu, thiếu khí, áp huyết thấp qúa, dưới tiêu chuẩn, chỉ bằng áp huyết trẻ em.
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)
Thí dụ cơ thể em bé nặng 10kg tế bào cần 1 lít máu nuôi tế bào, khi tăng trưởng thành người lớn, cân nặng 60kg thì có 60 kg tế bào thì phải ăn uống để lượng máu tăng lên 4 lít máu mới đủ, thì ngược lại lượng máu vẫn chỉ có 1 lít, do đó cha hay mẹ có tế bào gốc không đủ máu sẽ không có con được, nếu có thai thì máu không đủ nuôi thai, thai chết trong bụng mẹ gọi là sẩy thai, nếu may mắn có con thì tế bào gốc qúa yếu đứa con không thể phát triển được như những đứa trẻ khác.
Tinh khí cha mẹ tạo ra thai thành hình một đứa con trong bụng mẹ, đông y gọi là khí tiên thiên (cha mẹ cho đứa bé sức khỏe trước khi lọt lòng). Sau khi sinh ra đứa bé được nuôi dưỡng cho lớn lên khỏe mạnh hay yếu đuối là nhờ khí hậu thiên.
Nếu chăm lo sức khỏe tốt ăn uống tẩm bổ đầy đủ hồng hào khỏe mạnh thì khí hậu thiên nuôi bé cũng đền bù đủ sự thiếu sót khí huyết của khí tiên thiên, khi đo áp huyêt của trẻ em có 3 số Khí lực/Huyết/Đường nằm trong tiêu chuẩn thì đúa trẻ vẫn khỏe mạnh không bệnh tật, nhưng tinh thần, trí não thì kém hơn những đứa trẻ cùng tuổi.
Ngược lại vì cha mẹ vất vả không lo cho con ăn uống tẩm bổ đầy đủ sau khi sanh bé ra, làm mất Khí lực, thiếu máu, tế bào gốc trong tủy (ví như hạt giống đang ươm mầm), không được máu nuôi dưỡng nên chức năng làm việc của tủy không sinh sản ra máu, ra hồng cầu, bạch cầu, (ví như không thành cây ra hoa trái), tây y và đông y đều gọi là « bệnh tủy bất sản» tủy không làm ra máu, có dấu hiệu bé hay khóc vô cớ vì đau nhức toàn thân, người suy nhược kiệt quệ, sức lực hao mòn dần, ốm dần, tóc rụng, hay sợ hãi, đông y trước kia không biết là bệnh ung thư máu ở trẻ em nên gọi bệnh này là «bệnh sài mòn», ăn nói vẫn tỉnh táo lúc cơ thể không đau, thèm ăn nhưng không ăn được.
Nếu chúng ta có máy đo áp huyết trẻ em, thay vì mới sanh ra là 90-95mmHg thì khi phát hiện ra bệnh ung thư máu là thiếu máu toàn thân chứ không tổn thương vào một tạng phủ nào, áp huyết chỉ có 70-75/45mmHg nhịp tim thoi thóp 40, khi lên cơn sốt 120 là ngủ giấc ngủ ngàn thu, có thể cháu bé biết lúc cơ thể chết dần từ chân lên đầu, bé trăn trối lại chào mọi người là thần thức vẫn còn tỉnh táo, nhưng tế bào toàn thân đã chết.
Có những trẻ em mập nhiều mỡ, nhưng yếu sức vì không tập luyện để chuyển hóa mỡ thành máu, và không có oxy bảo quản duy trì công thức máu Fe2O3 làm mất hồng cầu, cơ thể dư chất sắt, áp huyết thấp, cảm thấy như bị ngộp nước.
Đặc biệt thiếu máu nhưng khi được tiếp thêm vài bịch máu thì khỏe, sau 1 tuần lại thiếu máu mất máu lại bị mệt, làm như trong người có ma cà rồng hút mất máu của mình, thật ra máu mới tiếp vào có dư oxy, nhưng hơi thở thoi thóp vì không tập luyện làm tăng oxy để duy trì công thức máu, nên công thức máu mất dần theo hơi thở thành CO2 thì máu chỉ còn lại chất sắt, nên việc tập bơi lội, thể dục thể thao, nhẩy dây, võ thuật ... rất cần thiết cho việc tăng cường khí lực cho bé.
Cách chữa :
Nếu bậc cha mẹ nào đã có thai sinh cháu bé được trong trường hợp này, cần phải cho cháu bổ máu, ăn thức ăn bổ máu tăng máu cho tim, tăng lượng máu cho cơ thể. Cần tập bơi lội, thể dục thể thao võ thuật tăng oxy bảo vệ duy trỉ công thức máu, tăng khí lực đẩy máu tuần hoàn, thiếu đường cho ăn thêm ngọt. Luyện thần nên đi học thiền tăng cường chức năng thần kinh của não. Thưòng xuyên đo áp huyết lúc nào áp huyết của cơ thể cũng phải tăng theo tuổi. Đã có cháu bé gái lúc 6 tuổi bị bệng ung thư máu, áp dụng phương pháp này cho đến nay 16 tuổi, nhờ ăn uống và tập võ, khỏi bệnh, khỏe mạnh cho đến ngày nay.
Cần theo dõi áp huyết để điều chỉnh Tinh, điều chỉnh Khí, nếu để áp huyết tụt xuống dần khi tuổi càng lớn mà áp huyết không tăng theo tuổi sẽ trở thành bệnh ung thư máu người lớn.
C-Thừa đường hay thiếu đường trong máu cũng gây ra bệnh ung thư :
Tế bào ung thư có nhiều nguyên nhân theo đông y là Khí lực và Huyết dư thừa nhiều qúa ví như các bệnh nhân ở những nước giầu có, hay thiếu qúa ví như những bệnh nhân ở những nước nghèo, làm xáo trộn nhịp tim, rối loạn chức năng của tế bào, tế bào thiếu năng lượng, nhiệt lượng và thiếu oxy.
Thí dụ trong gia đình có 5 người con, mỗi người có một chức năng làm việc khác nhau trong gia đình, chúng tên là : Mặn, Ngọt, Chua, Cay, Đắng. Nhưng khi dọn cơm ăn thì thằng Ngọt chỉ thích chọn thức ăn ngọt nhiều hơn nó mới ăn được, nhưng trong thức ăn không có món nào ngọt cả, nó hỏi mẹ nó tại sao không có phần ăn của con. Mẹ nó trả lời: Bác sĩ bảo con có bệnh tiểu đường không được ăn ngọt, cứ thế, bữa cơm nào nó cũng không có gì ăn, thì sức khỏe nó yếu dần chức năng làm việc của nó suy giảm yếu dần cho đến chết. Hiện tượng gì sẽ xẩy ra cho cả nhà, sẽ giống như bàn tay có 5 ngón bị chặt mất đi một ngón thì không còn sức lực của bàn tay để làm việc
Khi quan sát một người bị bệnh tiểu đường, kiêng không ăn đường, vậy cơ tim hay các cơ bóp khác lấy đường ở đâu mà hoạt động để chúng ta vẫn sống? Chúng ta không tự hỏi, tại sao khi thử đường-huyết vẫn thấy đường cao? Thật ra nó vẫn co bóp các cơ được vì nó rút đường từ bắp thịt cho đến khi bắp thịt teo dần còn trơ xương, rồi lại rút đường từ xương làm xương hư hỏng rỗng xốp dần làm gẫy nứt xương, rồi rút đường trong tủy xương, cuối cùng thì ung thư xương ung thư máu do tủy bất sản không sinh ra máu và hồng cầu. Trước khi xẩy ra tình trạng bệnh nặng này thì cơ thể đau nhức toàn thân như kiến lửa cắn, như ong đốt.
Các tế bào sống và hoạt động được khỏe mạnh là nhờ những chất bổ nuôi tế bào chức năng, theo đông y phải có đủ nguyên liệu cho xe chức năng tạng phủ làm việc đồng bộ. 5 cơ quan chức năng của cơ thể ví như 5 loại xe chạy nhiên liệu khác nhau được hấp thụ và chuyển hóa từ thức ăn, như Tim cần chất đắngnóng làm tim mạch co bóp mạnh, nên tây y tìm ra cà phê làm tốt cho tim mạch. Bao tử, lá lách cần chất ngọt để nuôi thịt, tăng nhiệt tăng nồng độ máu, giữ thân nhiệt và làm mạnh các cơ co bóp như cơ tim, cơ co bóp gan, bao tử, ruột, phổi, thận...Phổi cần chất cay làm diều khiển lỗ chân lông đóng mở làm xuất mồ hôi hay giữ mồ hôi, điều hòa trao đổi oxy nuôi da, điều hòa thân nhiệt thải độc. Thận cần chất mặn điều hòa lượng nước, là chất giúp điện giải lọc độc tố, và nuôi râu tóc xương răng. Gan cần chất chua làm mềm dẻo gân, mạch máu, móng, sụn và các sợi thần kinh giao cảm vận động, hưng phấn, ức chế cho sự cử động.
Chúng ta cũng đã biết một món ăn chế biến trở thành món ăn ngon phải có đủ 5 vị măn, ngọt, chua, cay, đắng, vỉ thế thịt ướp ngũ vị hương, sườn xào chua ngọt, nước chấm ngũ vị, thì món ăn vừa ngon vừa bổ, món ăn đủ ngũ vị của người Việt Nam là món Phở, Bún bò Huế vừa làm tăng Khí, vừa bổ máu tăng huyết.
D-Cần biết cơ chế vận chuyển thức ăn khi vào bao tử để biến thành chất bổ máu như thế nào ?
Chúng ta ví bao tử như 1 chiếc xe chất nhiên liệu để đi giao hàng, trong bao tử có đủ thức ăn, có nghĩa là đủ nhiên liệu cho 5 loại xe.
Nhiệm vụ thứ 1, xe bao tử cần nhiên liệu là chất ngọt giúp bao tử vận hành co bóp thức ăn, nhưng nó cần tim trợ giúp đưa sức nóng của tim là hỏa sinh thổ làm thức ăn trong bao tử nóng lên khi co bóp giống như nâu lại thưc ăn.
Nhiệm vụ thứ 2, bao tử phải giao chất đắng là nhiên liệu của tim thì tim mới làm việc tạo ra sức nóng cung cấp cho bao tử nấu chín nhừ lại thức ăn thành chất lỏng.
Nhiệm vụ thứ 3, bao tử phải giao nhiên liệu chất cay cho phổi mở lỗ chân lông giải độc và nhận oxy vào giúp thức ăn thành máu, nếu không nó sẽ biến thành đàm và mỡ.
Nhiệm vụ thứ 4, bao tử phải giao nhiên liệu chất mặn cho thận để thận bắt đầu làm việc lọc máu, lọc nước xấu trong qúa trình thức ăn biến thành máu phải lọc máu thành tốt để đưa lên gan dự trữ máu.
Nhiệm vụ thứ 5, bao tử phải giao nhiên liệu chất chua cho gan để gan thu lại chất mật dự trữ và lọc chất mỡ trong máu sạch mới giao cho tim tuần hoàn máu nuôi khắp các tế bào chức năng trong cơ thể.
Như vậy đường là nhiên liệu quan trọng nhiều nhất để bao tử đủ làm 5 giai đoạn, nên đông y bắt mạch thấy mạch của 4 tạng khác đều có mạch của bao tử gọi là mạch Vị-khí đi qua thì cơ thể không bệnh, vị-khí không đi qua tạng nào là tạng đó không được nuôi dưỡng mỗi ngày thì sẽ bị bệnh gọi là hư chứng. Ngược lại ăn dư thừa qúa nhiều, tạng nào cũng được Vị-khí giao thừa qúa cũng trở thành bệnh, đông y gọi là thực chứng.
Khi nhiệm vụ bao tử làm xong thì các chức năng của các tạng khác, lại làm việc chuyên môn của mình tạo ra các chất nuôi gân xương da thịt, thay cũ đổi mới làm trẻ hóa tế bào, làm mạnh tế bào lành, phục hồi tế bào bệnh để giữ cho cơ thể được khỏe mạnh.
Đông y biết được nguyên tắc khí hóa ngũ hành tạng phủ như thế, khi nó bệnh là do thiếu là hư chứng hay khi do qúa dư thừa là thực chứng, thay vì bắt mạch, ngày nay chúng ta dùng máy đo áp huyết mà biết được khí lực, huyết, nồng độ máu và khí lực tạo ra nhịp tim, sẽ biết được nguyên nhân bệnh và tình trạng bệnh.
Khi đo áp huyết có số tâm trương là lượng máu qua tim thấp hơn tiêu chuẩn tuổi, càng thấp nhiều thì cơ thể càng thiếu máu nhiều, thiếu chất sắt thì nặng tim ngực khó thở, ngộp thở, khi uống thuốc bổ máu hay B12 thì tình trạng bệnh tim ngực hết.
Nhịp tim đập nhanh chậm bất thuờng tây y gọi là bệnh rối loạn nhịp tim là do chất đường thừa hay thiếu, cần phải đo đường-huyết, nếu dưới 6.0mmol/l thỉ thiếu đường nuôi cơ co bóp tim, lâu dần thành bệnh hở van tim, cần phải ăn tăng chất ngọt lọt vào tiêu chuẩn đường khi bụng đói từ 6.0-8.0mmol/l, để đủ nuôi cơ tim và cơ bắp thịt giúp bơm máu tuần hoàn
E-4 giai đoạn diễn tiến của các bệnh ung thư ở người lớn :
Có hai loại ung thư thực chứng và hư chứng.
Loại ung thư thực chứng là loại cấp tính phát bệnh nhanh khi áp huyết cao uống thuốc trị áp huyết và tiểu đường mà không tập luyện, khiến tạng phủ bị biến chứng của thuốc làm cho máu trở thành thấp hàn thấp nhiệt, làm khí lực thiếu, huyết dư, nồng độ máu chuyển hóa đường nghịch. Nếu chúng ta không kiểm soát theo dõi áp huyết để phát hiện kịp thời không đúng tiêu chuẩn tuổi thì bệnh gây ra nhiều biến chứng cho tạng phủ nào yếu nhất bị ung thư trước làm đau tức khó thở thiếu oxy trong máu, chết rất nhanh mà tây y chưa tìm ra bệnh, vì thấy áp huyết vẫn không cao lắm, vì không có bảng quy định tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi.
Loại ung thư hư chứng là loại mãn tính theo thời gian lâu dài âm thầm, tây y cũng không phát hiện trước vì không để ý đến bảng Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi.
Y Học Bổ Sung chia làm 4 giai đoạn diễn tiến của bệnh như sau :
Giai đoạn 1 : Bệnh nan y tiềm ẩn. Phụ nữ đau bụng kinh, hiếm muộn do không đủ máu tạo thai.
Áp huyết đo được 90/68mmHg mạch 65-70 các con số này có ý nghĩa : 90mmHg là khí lực hay oxy trong máu không đúng tiêu chuẩn tuổi. số 68 là lượng máu thiếu để nuôi tế bào, mạch dưới 70 là thiếu đường để làm tăng nồng độ máu nên máu bị lạnh không lưu thông để nuôi các cơ bơm máu đi nuôi khắp các tế bào, nên các tế bào bị bỏ đói dần
Dấu hìệu bệnh : Nếu áp huyết hai tay trái và phải không đều, bên nào thấp thì bệnh nhân đau nửa đầu nhiều năm gọi là bệnh migrain. Thấp cả hai bên thì chóng mặt, mệt mỏi, đau nhức, đau bụng ăn không tiêu, đi đứng không nhanh nhẹn, làm việc nhiều thấy mệt khó thở. Phụ nữ kinh nguyệt không đều, huyết trắng, đau bụng khi hành kinh, bệnh hiếm muộn, bón giả vì ruột yếu không co bóp.
Nhân duyên làm bệnh nặng thêm :
Về khí lực : thiếu oxy do lười không vận động hay tập thể dục. hoặc vìlạm dụng thuốc trị bệnh áp huyết làm hạ khí lực thấp dần.
Về lượng máu : do ăn không đủ chất dinh dưỡng, ăn ít, kiêng ăn hay nhiều chất chua làm mất hồng cầu, làm giảm lượng máu.
Về nồng độ máu : lại kiêng ăn ngọt cơ thể thiếu đường nuôi cơ co bóp tim, cơ co bóp bao tử, cơ co bóp ruột và hậu môn..., lại uống nhiều nước làm phình ruột liệt cơ đàn hồi và làm loãng đường, loãng máu không đủ phẩm chất theo tiêu chuẩn.
Cách chữa phòng bệnh :
Có nhiều cặp vợ chồng lấy nhau 5-7 năm không sinh con, khi đo áp huyết ở giai đoạn này là thiếu khí lực và thiếu máu, khuyên họ tiêm thuốc bổ máu B12 hay uống thuốc bổ tổng hợp Multivitamines, mỗi ngày ăn phở hay bún bò huế, sau mỗi bữa ăn uống 1/3 lon Coke làm tăng áp huyết và lượng đường trong máu cùng kích thích mau tiêu hóa thức ăn, khi áp huyết tăng đủ tiêu chuẩn, thì dễ đậu thai hơn, nên nhờ máy đo áp huyết, họ đã có những đứa con khỏe mạnh.
Trong trường hợp nếu không chịu bổ máu tăng áp huyết sẽ có 3 trường hợp xẩy ra : Vô sinh. Nếu có thai dễ sẩy thai. Sinh được con sẽ èo oặt chậm phát triển và bị ốm đau cả đời làm khổ cả mẹ lẫn con, nếu đứa trẻ không nuôi dưỡng đầy đủ chất dinh dưỡng thì dễ bị ung thư máu.
Dưới đây là biến chứng của cơ thể thiếu máu áp huyết thấp gây ra nhiều bệnh (trích đoạn thư của môt bệnh nhân) :
Con kính chào Thầy

...Năm nay con 42 tuổi, huyết áp Tay trái: 95/65/78, Tay phải: 90/62/78, chân trái: 127/70/75, chân phải: 125/72/73. Cách đây 3 tháng con có thử đường trong máu thì đường trung bình là 5-7, bác sĩ nói là hơi cao, nhưng đường hàng ngày thì bình thường, vì con đo mỗi sáng trước khi ăn là 90, có hôm là 100, mà máy do đường còn mua thì mức thấp nhất là 70, cao nhất là 240

Bác sĩ nói con bị thiếu máu não, nên thường xuyên bị chóng mặt, có khi con thấy mình như bị hụt chân khi con đang đứng làm việc, và thấy mặt tốii xẩm lại khoảng 1 giây, con bị như vậy lâu rồi, người con rất lạnh, cả tay và chân, Ngay cả mùa hè mà con vẫn thấy lạnh vào buổi tối. Con ăn đồ rất phải cẩn thận, con hầu như không ăn được trái cây, thỉnh thoảng chỉ 1 vài trái nhỏ hoặc máy múi quýt, nếu con ăn nhiều hơn thì người con sẽ nổi gai ốc và cảm thấy lạnh từ bên trong, lúc đó con phải ăn gừng hay uống nghệ mới thấy đỡ lành nhưng tối đó sẽ không ngủ được. cả rau cũng vậy, con chỉ ăn được những thứ rau họ cải, cà rốt và phải luộc chín, ăn ít thôi, nếu không còn cũng bị nổi gai ốc và mất ngủ tối đó. Khi con bị mất ngủ thì phải mất mấy đêm sau con mới ngủ ngon, vì con ít ngủ nên con yếu làm, hay bị nhức nửa bên đầu trải, còn phải uống thuốc Advil mới hết, nếu lúc nào đói bụng mà không kịp ăn liền con cũng bị đau nửa đầu bên trái như vậy
Con cũng hay bị cảm lắm và cũng rất dễ nhiễm bệnh từ người khác, chỉ cần tiếp xúc với người bệnh cúm là con bị bệnh liền. Chân bên phải con rất yêu, khi con dùng làm việc hồi lâu là đầu gối và mất cả bị nhức không chịu nổi, nhiều lúc còn không đứng nổi, nếu con nghỉ ngơi không đứng vài ngày thì sẽ bớt dần, nhưng nếu lại đúng làm việc thì lại đau lại

Những điều còn vừa thưa với Thầy là con bị từ 5 năm nay cho đến giờ vẫn còn. Cách đây 1 tháng con bị cúm rất nặng, người con chưa bao giờ lạnh như vậy trước đây, con ngủ không được mấy ngày liên tục, con uống thuốc cúm 2 tuần thì con hết bệnh, nhưng sau đó con thấy người con yêu hơn trước nhiều. Cách đây 3 tuần con ngủ dậy và thấy rất chóng mặt, nằm thì thấy đỡ, nhưng ngồi dậy thì chóng mặt nhiều hơn, Tim đập nhanh làm cho con khó thở, và con phải ho thì mới thở được, con như bị hụt hơi, phải hít thở liên tục mới chịu nổi, nếu không con bị mệt, tai bên phải bị ù liên tục, mỏi gáy và đầu thì hơi nặng, có lúc nhức đầu. Con được biết tới website của thầy qua người bạn, còn có xem nhưng con không biết động tác nào thì phù hợp với bệnh của con. Xin Thầy chị cho con biết con cần ăn uống như thế nào cho đúng.....

Cách chữa gốc bệnh :
Theo công thức tiêu chuẩn áp huyết của bệnh nhân thì : Khí lực thiếu/ Huyết thiếu/ Đường thiếu
Cần bổ máu : Tiêm B12 hay uống B12, Multivitamines, mỗi ngày ăn phở hay bún bò huế, sau khi ăn cơm uống 1/3 Coke làm tăng áp huyết, dễ tiêu, tăng đường. Kiêng ăn thức ăn chua làm phá máu.
Cần bổ khí : Trước khi tập khí công, cần đo đường nếu thấp hơn 7.0 thì uống 2 thìa đường rồi tập ngay khí công để chuyển hóa đường làm tăng khí lực và tăng tính hấp thụ chuyển hóa thức ăn biến thành máu. ( Bài tập hướng dẫn bên dưới).
Giai đoạn 2 : Bệnh nan y khó chữa, các tế bào suy nhược kết khối làm tắc tuần hoàn.
Số đo áp huyết tụt thấp dần, đo được 85/65mmHg mạch 60, có nghĩa là khí lực tuần hoàn máu giảm còn 85, lượng máu trong cơ thể giảm còn 60, và nồng độ máu giảm do thiếu đường làm máu lưu thông chậm, tay chân lạnh.
Nhân duyên làm bệnh nặng thêm :
Cơ thể đã suy nhược, các chức năng hoạt động của tạng phủ yếu dần, hoa mắt chóng mặt, khó thở như suyễn khi mệt, ăn không tiêu, chán ăn, ăn ít, lại không ăn những thức ăn bổ máu, bị đau nhức toàn thân, lại uống nhiều loại thuốc chữa nhiều bệnh như thuốc hạ áp huyết, hạ đường-huyết, đau nhức tay chân, thần kinh tọa, thuốc chóng mặt nhức đầu, thuốc trầm cảm, mất trí nhớ, thuốc loãng xương, thuốc bao tử ăn không tiêu, thuốc chữa táo bón, thuốc chữa mất ngủ, tất cả các thuốc tương phản kém hiệu nghiệm vì cơ thể không hấp thụ chuyển hóa, bao tử trở thành thùng rác chứa nhiều loại thuốc tạo ra một hợp chất phá hại bao tử thành ung thư bao tử, mà nguyên nhân gốc bệnh chỉ do nguyên nhân thiếu khí lực, thiếu máu, thiếu đường.
Ở giai đoạn này, nếu nữ bệnh nhân thì kinh nguyệt bị đau ra kinh ít, ra kinh có hòn cục, huyết trắng, bướu tử cung, nam bệnh nhân thì ung thư tiến tiền liệt, ung thư ruột già...
Giai đoạn ung thư máu ở người lớn :
Đa số ung thư máu người lớn là ở người nữ thích nhịn ăn làm gầy người, thích ăn chua làm mất máu... không dám ăn nhiều hay ăn thức ăn bổ máu, không thích ăn đường, khiến áp huyết xuống thấp dần mà không để ý, cơ thể không có dấu hiệu đau đớn nào, khám tây y không thấy tổn thương thực thể tạng phủ nào, bỗng nhiên một ngày đi không vững té xỉu, vào bệnh viện khám tìm bệnh, cuối cùng mới biết tủy bất sản, tế bào gốc không còn sinh ra tế bào máu.
Nếu không làm hóa trị xạ trị thì cơ thể không mệt, không đau nhức vật vã, còm chữa theo tây y làm cơ thể đau đớn từ linh hồn đến thể xác, không ăn uống hít thở được, chỉ dùng morphin chống đau, người xơ xác, tế bào không có máu nuôi chết từ từ không còn thần sắc thì bệnh nhân lịm dần đi vào giấc ngủ ngàn thu.
Cách chữa :
Cần theo dõi áp huyết mỗi ngày nếu thấy dưới 100/60mmHg là phải mau mau phục hồi lại ăn uống bổ máu cho có da có thịt và tập khí công duy trì công thức máu, chế paté thận và tủy ăn với bánh mì, mỗi ngày ăn thêm tô phở hay bún bò huế, sau khi ăn uống 1/3 lon Coke rồi tập khí công bài “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mền Bụng” 600 lần, luyện cho cơ thể tăng khí lực tăng oxy, để phục hồi chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu tuần hoàn phục hồi tế bào bệnh, thì các bệnh khác tự khỏi.
Có những nữ bệnh nhân có học lực giỏi, đảm đương chức vụ cao, làm việc nhiều quên ăn, cơ thể suy nhược áp huyết xuống dần xuống đến 100mmHg các bác sĩ đều nói tốt không sợ bệnh cao áp huyết hay cao đường nên bệnh chóng mặt choáng váng xẩy ra mà tây không tìm ra nguyên nhân, khám tìm thử máu mãi mất máu dần bắt đầu nghi ung thư, đang trong thời gian lấy máu theo dõi ung thư. Họ đến nhờ tôi khám, đo áp huyết dưới 100 tôi nói ngưng lấy máu thử, đây là dấu hiệu khoảng 2-3 năm sẽ bị ung thư. Họ trả lời đúng rồi, bệnh viện đang thử máu tìm ung thư. Tôi nói không cần thiết phải lấy thêm máu để thử, cần tiêm hay uống B12, sau vài tháng áp huyết tăng lên dần, tây y không còn nghi ngờ ung thư nữa.

Giai đoạn 3 : Giai đoạn này tây y không chữa được.
Số đo áp huyết khí lực oxy giảm xuống 80mmHg, lượng máu giảm xuống 60, nồng độ máu giảm xuống 60. Đa số bệnh nhân ở giai đoạn này tây y mới khám phá ra bệnh ung thư hoặc nghi ngờ ung thư thì cũng đã qúa muộn.
Nhân duyên làm bệnh nặng thêm
Cơ thể cần khí lực làm tăng oxy, cần bổ sung thêm máu, để khí đẩy máu tuần hoàn nuôi tế bào, và cần oxy làm chậm lão hóa tế bào lành và ngăn chặn sự phát triển tế bào ung thư và làm teo nhỏ tế bào ung thư, cần đủ lượng đường nuôi cơ tim co bóp và cơ bắp làm tăng chỉ số bơm máu ở mọi nơi mọi chỗ. Trong khi những vị thuốc hay dược thảo chuyên trị ung thư chỉ tiêu diệt tế bào chứ không có thỏa mãn được nhu cầu cần cứu những tế bào bằng oxy, bằng máu và bằng đường, thì những thuốc đó trở thành vô dụng.
Cách chữa :
Đã có nhiều bệnh nhân ung thư áp dụng theo phương pháp tự điều chỉnh 3 yếu tố oxy tăng khí lực là tập khí công hít thở vận động theo những bài khí công thông khí toàn thân, uống thuốc bổ máu, tiêm B12, uống Multivitamines, mỗi ngày thay phiên ăn 1 tô phở hay bún bò Huế, ăn những thức ăn đủ dinh dưõng khí/ huyết/ đường, làm tăng áp huyết lên đúng tiêu chuẩn tuổi, tập khí công tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu, tập thở khí công cho dư thừa oxy để ngăn chặn phát triển ung thư và làm tăng hồng cầu phục hồi tế bào lành.
Thí dụ trong cơ thể chúng ta có 5-10% tế bào ung thư, còn lại 90% tế bào lành. Nếu không ăn đủ chất bổ máu, không làm tăng lượng máu, lượng khí oxy, mà bỏ đói tất cả các tế bào thì 90% tế bào còn lại yếu dần giúp tế bào ung thư phát triển nhanh hơn trở thành ung thư toàn thân tây y gọi là di căn, thì tại sao chúng ta không bổ toàn thân để 90% tế bào lành mạnh dần, cơ thể tăng nhiều khí lực nhiều oxy thì cơ thể đủ mạnh sẽ tự cô lập những tế bào ung thư làm chúng teo nhỏ biến mất
Do đó trong những khảo cứu của tây y cũng thường nói cơ thể chúng ta cũng đã vài lần có tế bào ung thư tiềm ẩn nhưng chúng không có điều kiện phá hoại vì cơ thể chúng ta mạnh nó tự hủy diệt.

Vì theo nhân duyên tốt hay xấu tác động vào tế bào, làm mất máu mất hồng cầu mất oxy thì những tế bào đó trở thành tế bào ung thư, ngược lại nhờ duyên tốt tác động vào tế bào, tập khí công tăng
 khí lực, hít thở tăng oxy cho máu, ăn uống tẩm bổ máu tăng lượng máu, ăn đủ ngọt tăng nồng độ máu lưu thông dễ, giữ cho áp huyết luôn lọt vào tiêu chuẩn tuổi thì làm gì có bệnh ung thư, vì tế bào ung thư chỉ phát sinh trong môi trường hiếm khí oxy, nên cơ thể cần biết tự chữa bằng các bài tập của môn KCYĐ chính là oxy liệu phápđiều này Trường Đại học Hopkin đang mong muốn nhưng chưa tìm ra phương pháp nào để có oxy liệu pháp trong việc điều trị bệnh ung thư.
Những bệnh nhân ung thư nhờ phương pháp đo áp huyết theo dõi khí lực, lượng máu, lượng đường làm tăng áp huyết lọt vào tiêu chuẩn nên đã thoát khỏi bệnh ung thư hiểm nghèo mà không cần dùng thuốc.
Giai đoạn cuối, giai đoạn 4 : Các tế bào toàn thân thiếu máu thành ung thư máu, tây y gọi là di căn toàn thân. Bệnh nhân sẽ chết
Số đo áp huyết khí lực giảm còn 70mmHg, lượng máu thiếu qúa nhiều dưới 60, nồng độ đường trong máu thiếu do thiếu đường làm nhịp tim xuống thấp tim đập chậm còn 40-50 thoi thóp.
Cách chữa :
Cũng như trên, cần ăn thêm những chất bổ máu, chích hay uống B12 liều cao 5000mcg, kiêng ăn chua, vit.C, kiêng ăn Ensure sẽ bị kết đàm khi cơ thể không đủ nhiệt chuyển hóa làm khó thở, máu tắc không lưu thông, cần ăn thêm chất ngọt làm tăng nồng độ máu và cần nhất tập khí công tăng khí lực để tăng tính hâp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu và tăng oxy dư thừa để duy trì công thức máu Fe2O3 không bị phá vỡ, và dư oxy để tế bào không bị lão hóa và làm teo nhỏ tế bào ung biến mất dần, cần nhiều chất sắt để chống bệnh ngộp thở tức tim ngực.
Bài tập khí công tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn bổ máu biến thành máu mà không biến thành đàm, giup cơ thể mau đói thèm ăn sẽ mau phục hồi tế bào bệnh :
Sau mỗi bữa ăn uống 1/3 lon Coke, chờ 30 phút, bắt đầu tập bài “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng” liên tục 600 lần, khi đang tập thấy mệt thì uống thêm 2 thìa mật ong hay đường vàng cho cơ thể có thêm năng lượng và nhiệt lượng để tập tiếp cho đủ số, người sẽ nóng, mặt hồng hào, xuất mồ hôi thì đường C6H12O6 đã được chuyển hóa thành mồ hôi 6(H2O) và thán khí CO2 khi thổi hơi ra, nếu thử đường trước khi tập là 6.0mmol/l, khi uống 2 thìa đường đo lại đường lên 8.0mmol/l, sau khi tập cho ra mồ hôi, thử lại đường xuống như cũ là 6.0mmol/l hay thấp hơn, như vậy là đường đã được tiêu thụ chuyển hóa hết, đường chỉ biến thành chất độc khi uống đường mà không tập khí công để chuyển hóa ngay sẽ biến thành chất độc Hexane giống như nấu đường bị cháy thành nhựa cứng bám vào tế bào làm thành khối u chết.
Vào Internet : Đánh chữ “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng”, sẽ hiện ra video, rồi tập theo
Lý do không chữa được :
Những bệnh nan y tây tìm không ra nguyên nhân gốc, mà chỉ thấy nguyên nhân ngọn:
Tất cả những con số khí lực (Oxy), lượng máu qua tim, độ đường trong máu chúng ta cần theo dõi mỗi ngày đều phải nằm trong tiêu chuẩn tuổi để ngăn ngừa dư thừa qúa nhiều hay thiếu qúa nhiều đều gây ra bệnh tiềm ẩn mà tây y chưa thấy.
Theo công thức áp huyết là : Khí lực/ lượng máu /nồng độ máu thì trường hợp ung thư cấp tính sẽ xẩy đến bất cứ lúc nào, khi thấy khí lực tốt/lượng máu thiếu/ riêng nồng độ máu qúa cao làm nhịp tim rất cao nhưng không bị sốt, mà thử đường trong máu lại thấp, thì nhịp tim rất cao không phải do đường, nếu đường cao thì tay chân nóng, ngược lại tay chân lạnh. Đông y khí công kết luận do thiếu máu trầm trọng nên nhịp tim càng phải đập nhanh qua tim để nhận oxy nuôi cho tim đập giữ mạng sống như chỉ mành treo chuông, còn các nơi khác không đủ máu chạy đến nuôi dưỡng sinh biến chứng chóng mặt, hoa mắt, mệt mỏi, đau nhức, rụng tóc, mất trí nhớ, hay quên, cử động yếu không nhanh nhẹn, ăn không tiêu hóa nên ăn rất ít. Như vậy KCYĐ gọi là áp huyết giả, cần phải đổi ra áp huyết thật, lấy số khí lực trừ đi số lần nhịp tim đã đập nhanh hơn 80 lần so với người khỏe mạnh.
Thí du áp huyết giả của người bị bệnh ung thư là : 128/68mmHg nhịp mạch 130 đổi sang áp huyết thật, nhịp tim đã đập nhanh hơn tiêu chuẩn 80 là 130-80=50. lấy khí lực 128-50=78.
Áp huyết thật bây giờ là 78/68mmHg với nhịp tiêu chuẩn 80 là người đang bị bệnh ung thư.
Do đó máy khám bệnh Quest hoặc Masimo IspO2 và máy đo áp huyết và máy đo đường sẽ khám ra được bệnh ung thư trước khi tây y tìm ra bệnh.
Phát hiện sớm các bệnh ung thư nội tạng để phòng ngừa :
A-Tại sao bệnh ung thư khó chữa ?
Tây y tìm thấy ung thư khi đã nhìn thấy tế bào ung thư thành hình trong cơ thể, như vậy là đã không phát hiện sớm khi chưa thành hình để đề phòng, vì thế việc chữa trị ung thư đã muộn nên rất khó chữa.
Chúng ta muốn biết những diễn biến của khí huyết trong qúa trỉnh hình thành của bệnh ung thư dù theo tây y hay đông y cũng cần phải dựa theo bảng : Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi của môn Khí Công Y Đạo, mới biết hư-thực, hàn-nhiệt của khí và huyết thay đổi tốt xấu như thế nào trong tửng đơn vị tế bào, trong từng tạng phủ :
Đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi của người khỏe mạnh theo môn học Khí Công Y Đạo , xếp theo công thức tổng quát của 3 số đo áp huyết là :
Khí lực hư hay thực/Huyết hư hay thực/Hàn hay nhiệt so với tiêu chuẩn tuổi khi bị bệnh so với tiêu chuẩn của người khỏe mạnh
a-Xét nghiệm 1 đơn vị tế bào để biết nguyên nhân tại sao bị biến dạng trở thành tế bào ung thư :

1 đơn vị tế bào gồm có khổng chứa Khí, có dịch chất là nước, máu để nuôi nhân và 1 số những chất bổ khác mà nó mang theo để làm nhiệm vụ của nó như tạo ra xương, gân, râu, tóc, da, thịt ...thay cũ đổi mới, những chất mà tế bào loại bỏ từ máu xấu, từ dịch chất trở thành Carbon nhờ oxy của khí trong khổng trao đổi thành thán khí CO2 theo đường khí ra khỏi cơ thể bằng hơi thở, mồ hôi, và tiêu tiểu.
Tế bào nào thiếu máu, và hiếm khí thiếu oxy, thì tế bào chức năng không làm công việc thay cũ đổi mới cho tế bào nội tạng được, thiêu máu và thiếu chất bổ thì dịch chất nhỏ dần, thiếu oxy thì không chuyển được Carbon, tế bào co lại trở thành cứng đặc, các tế bào khác ở chung quanh cũng vậy, liên kết thành 1 khối cứng, làm tắc nghẽn sự lưu thông khí huyết đến nơi khác, đó cũng là lý do ăn đường cần phải tập khí công để chuyển hóa ngay cho cơ thể xuất mồ hôi, biến công thức đường C6H12O6 thành 6 đơn vị hơi nước 6(H2O), và thổi hơi ra thán khí CO2, nên đưòng đã được chuyển hóa hết, nếu không tập khí công cho đường chuyển hóa ngay sẽ biến thành độc tố Hexane là 6 đơn vị Carbone CH3(CH2)4CH3, làm tế bào ung thư đã dư chất Carbone lại làm dư thêm nữa như đã dẫn giải nguyên nhân tế bào trở thành ung thư ở trên.
Kết luận : Tế bào ung thư do hiếm khí oxy và thiếu máu. Tỷ lệ trao đổi giữa khí oxy và máu tuần hoàn lại làm biến đổi nhịp tim qúa cao thành nhiệt hoặc qúa thấp thành hàn.
Trường Đại học Hopkin nói Oxy diệt tế bào ung thư, thật ra không phải là diệt mà giúp carbon trong tế bào được chuyển hóa thải độc, nên oxy liệu pháp rất cần thiết để phục hồi sự sống cho tế bào, nhưng các nhà khoa học đã quên rằng, tế bào cũng cần máu, cần chất bổ, thì ngược lại không cho bổ máu, không cho ăn bổ, vì mục đích bỏ đói để tiêu diệt 5-10% tế bào ung thư trong cơ thể thì 90% tế bào lành trong cơ thể cũng bị bỏ đói thành thiếu máu lại trở thành tế bào ung thư, và chính không có chất bổ dưỡng nuôi cơ thể, làm bệnh nhân không có sức lực, khó thở, làm thiếu khí lực là oxy, khiến tế bào mất đi cả 2 yếu tố Khí lực và Huyết tuần hoàn không đúng tiêu chuẩn tạo ra nhịp tim qúa cao hay qúa thấp làm cho tế bào lạnh qúa đông cứng thành khối hay nóng qúa tế bào vỡ ra lở loét.
b-Xét theo kinh nghiệm thay đổi khí và huyết trở thành bệnh ung thư theo đông y :
Nếu đứng trên quan điểm khoa học, chúng ta xem 2 yếu tố Khí và Huyết là 2 chất hóa học, cần một chất xúc tác là thức ăn hay thuốc uống, thuốc cây cỏ đặc trị ung thư, hay đường...nó sẽ tạo ra một phản ứng hóa học cho ra một số năng lượng và nhiệt lượng khác nhau, đông y gọi những phản ứng của khí huyết và thức ăn trong bao tử tạo ra một chất được đặt tên là mạch bệnh như mạch Trầm, trì, hồng, khâu, khẩn, tế, vi, hoạt....
Muốn dễ hiểu, chúng ta bỏ qua tên gọi mạch bệnh, giống như phản ứng của 2 chất hóa học có những chất xúc tác khác nhau tạo ra biết bao nhiêu là công thức khác nhau.
Chúng ta chỉ để ý đến nguyên nhân khí hóa giữa 2 yếu tố khí và huyết như thế nào đã tạo ra những bệnh ung thư gì theo kinh nghiệm của đông y như :
B-Nguyên nhân biến đổi mạch khí từ tốt đến mạch khí bệnh :
Theo đông y, cơ thể có nội khí gọi là ngũ tạng khí khác nhau theo chức năng khí hóa riêng của mỗi tạng, nhưng các khí này đều phải nhờ đến khí của bao tử tiếp nhận chuyển hóa từ thức ăn, ví như chất xúc tác tạo ra phản ứng hóa học khác nhau, nên các bệnh đều do nội khí ngũ hành từ bao tử tiếp nhận chuyển hóa thức ăn mà phát sinh ra khí huyết tốt hay xấu, mà chúng ta có thể biết được, kiểm chứng được bằng máy đo áp huyết, so sánh với bảng tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi.
3 số kết qủa của máy đo áp huyết thay đổi tốt xấu liên quan đến 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần :
Tinh : là chất tạo ra khí âm và huyết âm nhiều hay ít đến từ thức ăn.
Khí : là âm khí có sẵn trong cơ thể là thán khí, và khí dương oxy do tập luyện khí công, thở thiền.
Thần : là thần sắc khỏe mạnh hồng hào là đủ thần, hay sắc xanh trắng tái nhợt là thiếu thần, thần đến từ thức ăn làm cơ thể nóng ấm hay lạnh, đến tử đường, dư đường thì người nóng, thiếu đường thì người lạnh, và thần đến từ hơi thở thiền giúp cơ thể nóng ấm, nhiều oxy làm tăng hồng cầu và điều hòa nhịp tim không nóng không lạnh.
Nên công thức áp huyết Tâm thu/ Tâm trương/ Nhịp tim đổi thành công thức khám bệnh bằng máy đo khí huyết là Khí lực/Huyết/Đường và đổi thành công thức điều chỉnh bệnh là : Khí/Tinh/Thần.
a-Bệnh từ thức ăn trong bao tử không chuyển hóa bị tích tụ làm ra các bệnh do khí :
Đầu tiên làm đau hông sườn : nhưng khi lấy tay đè vào nơi đau hông sườn thì can khí được thông hết đau, buông ra lại bị đau, nguyên nhân do ăn uống không điều độ thức ăn không chuyển hóa vẫn còn tích tụ trong bao tử.
Để lâu không chữa, thì mạch khí có hai loại khí đi lên hay khí đi xuống tùy theo loại thức ăn, người ta gọi là bướu hơi, bướu lành :
Diễn tiến của khí đi lên tạo thành bướu khí : sẽ tích tụ khí ở dưới tim, lên dần đến ngực, rồi đến khí tích tụ ở cổ họng.
Diễn tiến của khí đi xuống tạo thành bướu khí : sẽ tích tụ ở rốn, ở bụng dưới, ở trên háng, ở buồng trứng, bộ sinh dục...

b-Nguyên nhân tích tụ cả khí và huyết thành ung bướu nếu không đủ khí chuyển hóa hết đến các tạng phủ.
Nếu chúng ta biết danh từ chuyên môn về tên mạch thì tên mạch bệnh của đông y, cũng nói về tình trạng khí lực và tình trạng máu trong cơ thể do thức ăn uống không đủ chất tạo máu hay thừa máu, và giữa sự trao đổi khí huyết tạo ra nhịp mạch, với kinh nghiệm đông y hàng ngàn năm đã cho biết được những nguyên nhân bệnh ung thư mà chúng ta có thể kiểm chứng được bằng máy đo áp huyết.
Nếu khám bệnh khí-huyết bằng máy đo áp huyết chúng ta có những loại áp huyết hoặc đo bên tay trái để biết bệnh ở tỳ vị, phổi, tim, ruột non. Đo bên phải để biết bệnh ở gan mật, tim...Đo ở 2 cổ chân biết bệnh ở thận, bọng đái, ruột, bộ sinh dục nam nữ...
Những bệnh nặng hay nhẹ đều căn cứ vào 3 số : Khí lực/ Huyết/ Đường.
Xét qua một vài nguyên nhân ung thư, khi đo áp huyết những bệnh ung thư chúng ta sẽ có kết qủa áp huyết khác nhau như :
Bướu trong lồng ngực như ung thư phổi có mạch khí yếu+chậm+nhỏ đi lên kết khối, khiến phổi thiếu máu và oxy, bị ngưng tụ một chỗ. (Khí lực thiếu/ thiếu nhiều máu/ nhịp tim chậm (hàn).
Bướu cổ thì mạch khí hàn do khí huyết đều hư. (Khí thiếu/Huyết thiếu/hàn)
Bướu ở cuống bao tử dưới rốn, có mạch khí hàn do khí huyết đều hư (Khí thiếu/Huyết thiếu/hàn)
Bướu ở ruột non do khí huyết hư hàn kết tụ (Khí thiếu/Thiếu nhiều máu/hàn)
Bướu ở trên háng thuộc bộ sinh dục nam nữ, khí huyết hư hàn kết tụ (Khí lực thiếu/thiếu nhiều máu/hàn) đo áp huyết cổ chân, bên nào có Khí lực/Huyết thấp thì bên đó có bướu, cả 2 bên thiếu giống nhau thì có bướu ở giữa.
Ung thư gan hoặc bướu gan do gan làm việc mệt nhọc qúa độ mà ăn không đủ chất tạo máu (Khí lực hơi thiếu/thiếu máu trong gan/không hàn không nhiệt)
Ung thư phổi hoặc bướu phổi, riêng mạch phế khí thực do cảm hàn (Khí thực/ thiếu máu trong phổi/hàn)
Bướu thận do nội thương khí trệ tại thận làm đau do khí thiếu huyết dư làm sưng ứ (Khí lực thiếu/ máu dư ở thận/hàn)
Ung thư lá mía, hễ ăn vào mửa ra ngay, mạch khí huyết thực (Khí lực cao/huyết dư/ nhiệt), khi huyết cao ít thì bướu nhỏ, khí huyết càng cao bướu càng lớn. Âm khí uất kết ở lá mía thành khối trong bụng làm thành ung thư bao tử hay lá lách
Các loại tích tụ ung bướu mà mạch Hư + Nhược là áp huyết cả Khí lực và Huyết thấp 75/60/45 thì rất khó chữa.
Bệnh trưng hà ung thư do uống nhiều nước mà không đủ khí lực thành bệnh khí uất không chạy, làm thủy thủng phù nước ứ đọng không tiêu, ngực đầy nghẽn, bụng có hòn cục thành bệnh.
Ung thư ở bụng dưới do uống nhiều nước ứ ở thận bộ : thành hàn khí tích tụ ở hạ tiêu sinh ra trùng sán hoặc chứng đóng cục cứng ở bụng dưới sau thành ung thư.

Ung thư ổ bụng do khí thấp và nhiệt đình trệ trong người làm ra bệnh ợ chua, bệnh nổi hòn cục trong bụng ấn vào thấy đau, để lâu thành ung thư. (Khí lực cao/ Huyết cao/ nóng)
Ung thư hàn hay nhiệt do lo nghĩ vất vả qúa làm hao tổn thần khí, nếu ở Thốn bộ do đàm nhiệt kết thuộc loại ung thư nhiệt, ở Thốn bộ do hàn khí tích tụ thuộc ung thư hàn, ở Quan bộ do cả 2 đàm nhiệt kết và hàn khí tích tụ làm cho bệnh nhân cảm thấy nơi khối u lúc nóng lúc lạnh.
Ung thư do nhiệt do tà khí độc chạy vào kinh mạch làm hại phế thở hổn hển, vào bụng làm đầy bụng, ngoài da nổi mụn ung nhọt, bên trong người nổi ung bướu gây ung thư do nhiệt. Đo áp huyết bên bao tử Khí lực cao/Huyết dư/nóng
Ung thư do hàn do khí lạnh đọng ở kinh lạc thành bệnh tích tụ ung bướu thì Khí lực thiếu/Huyết thiếu/hàn.
Ung thư trong trường vị, thấy nóng trong ruột non thì Khí lực hư/Huyết dư/nhiệt.
Ung thư ruột có mạch Khâu + Hồng + Sác thì Khí lực thiếu/ Huyết dư/nhiệt
Trong người khí huyết bị hàn thấp tích tụ gây ung thư do huyết không được trao đổi oxy thành huyết hư, trước khi bị ung thư đã có dấu hiệu thần kinh co rút làm đau nhức lưng, đau mình.
Trong người huyết ứ kết thành ung thư
Gan nóng làm đau đỏ mắt, mắt kéo mây mờ, chảy nước mắt, nặng thì phát mụn nhọt hay ung thư.
Bao tử kết hàn lạnh thành cục bướu.
Bụng dưới rốn đau do tỳ lạnh thành bệnh trưng hà ( ung thư)
Thận khí hư, đàn ông bệnh di tinh, tiểu ra máu do khí kết ở thận thành sạn thận. Đàn bà bị băng huyết, huyết trắng, kinh nguyệt không thông, nếu để lâu không chữa khỏi sinh ra ngứa âm hộ, ung thư tử cung, chân đùi nhức mỏi đau buốt.
Thận bị hàn tà làm đi tiểu luôn, tinh khí bạc nhược, đàn bà bị huyết kết ở tử cung làm đau, nặng thì bị ung thư.

C-6 loại áp huyết làm ra bệnh ung thư :

Những nguyên nhân gây ra bệnh ung thư đều do từ ăn uống, từ chức năng khí hóa, hấp thụ chuyển hóa nhờ vào KHÍ đẩy máu. Khi khí huyết bị nghẽn, ứ, tắc, trì trệ làm kết đọng tại một nơi nào đó trong cơ thể do hàn hay nhiệt, do thiếu máu, thiếu khí oxy nuôi tế bào, khiến bệnh nhân rất đau đớn toàn thân vì tế bào mất máu, thừa carbon, thiếu oxy sẽ trở thành tế bào ung thư, đo áp huyết kiểm chứng thông thường có 6 loại áp huyết làm ra bệnh ung thư xếp loại theo tên gọi của đông y như sau :

Trường hợp 1-Khí-huyết suy nhược gây ung thư.
Áp huyết thường 80/50mmHg mạch 50
Số tâm thu 80 chỉ khí lực yếu, số tâm trương 50 là thiếu máu chạy qua tim, mạch 50 là cơ thể lạnh.
Trường hợp 2- Khí-huyết qúa dư thừa gây ung thư :
Áp huyết thường 180-220/120mmHg nhịp tim 120 dù có uống thuốc hạ áp huyết cũng không xuống.
Số tâm thu trên 180 qúa cao chỉ Khí lực tắc nghẽn không thông, nên uống thuốc cũng không thay đổi làm cho khí xuống. Số tâm trương 120 dư máu làm ứ máu tích tụ gây ra khối u cholesterol, khối u mỡ, khối u do huyết ứ bầm huyết, khối u nước... chia ra khối u lành tính hay ác tính. Nhịp tim 120 là qúa nhanh, người lúc nào cũng nóng như sốt mà không do vi trùng, virus, không do máu nhiễm trùng.
Trường hợp 3 : Bệnh khí-huyết hư giả thực
Áp huyết thuờng 110-120/55mmHg nhịp tim 120 người lạnh chân tay lạnh.
Trường hợp 4 : Bệnh khí huyết thực giả hư
Áp huyết thường 80/100mmHg nhịp tim 80
Số tâm thu 80 chỉ khí lực hư yếu, nhưng số tâm trương 100 dư máu, nhịp tim bình thường không nóng không lạnh, cơ thề có nhiều khối u do ứ huyết.
Trường hợp 5 : Bệnh hàn giả nhiệt
Áp huyết thường 80/50mmHg nhịp tim 60 giống trường hợp 1 nhưng người lại rất nóng như sốt, đông y gọi là mạch đi nghịch do dư đường trong máu không đủ khí lực chuyển hóa đường, nếu đo đường-huyết thì lại qúa cao trên 12.0mmol/l nghịch với mạch 50.
Trường hợp 6 : Bệnh nhiệt giả hàn .
Áp huyết thường 120/50mmHg nhịp tim 110
Số tâm thu 120 tưởng là tốt, nhưng thiếu máu qua tim nên số tâm trương 50, nhịp tim 110, người bị nóng sốt nhưng chân tay lạnh, tây y tìm không ra vi trùng virus hay máu nhiễm trùng, đông y gọi là mạch đi nghịch do thiếu đường, nếu đo đường-huyết thì thấp dưới 5.0mmol/l nghịch với mạnh 110.
D-Cách chữa và phòng bệnh ung thư đơn giản :
Vị thuốc thần kỳ chữa ung thư là Máu và Oxy.
Căn cứ vào áp huyết của bệnh ung thư và của tế bào ung thư cần là máu và oxy. Nên máu và oxy mới là vị thuốc thần kỳ để chữa khỏi bệnh ung thư, chứ không phải là thuốc đặc trị hay loại cây cỏ nào như những Lá Sả, Lá Đu Đủ, Nghệ, Măng tây, Đông Trùng hạ thảo, Linh Chi, Bán Chi Liên Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo, Canh Dưỡng Sinh của ông Thái Lập Thạch, Gạo lức muối mè của ông Oshawa, ăn theo âm dương...
Chưa có cơ sở khoa học để kiểm chứng và phân loại theo Tính-Khí-Vị loại thần dược nào làm tăng khí, giảm khí, tăng huyết, giảm huyết, tăng nhiệt, giảm nhiệt để hướng dẫn những bệnh nhân ung thư nào dùng được và bệnh ung thư nào không dùng được.
Trong 6 loại áp huyết của ung thư, nguyên tắc chữa bệnh của thuốc đông y, đầu tiên chữa vào hàn hay nhiệt, khi hàn nhiệt trở lại bình thường thì nhịp tim trở lại bình thường có nghĩa là Khí và Huyết phản ứng với nhau đã hòa hợp trở thành mạch Hoãn.
Kế đến vị thần dược nào mà khí lực áp huyết tăng cao mà uống vào thấy giảm, hay vị thần dược nào mà áp lực khí thiếu, uống vào làm tăng khí dễ thở, cảm thấy khỏe, tuy nhiên khí này là khí âm từ thức ăn, chứ không phải khí dương do tập luyện làm tăng oxy mới giữ được công thứ máu Fe2O3 trở thành máu đỏ
Kế đến loại thần dược nào uống vào làm tăng huyết hay giảm huyết, huyết này cũng là huyết âm Fe 2O chưa có thêm oxy do tập luyện thở làm tăng oxy mới biến máu này trở thành máu đỏ Fe2O3
Trên mạng có truyền tải tin Anh Phùng Văn Bộ (80 tuổi) là thầy đông y châm cứu ở Canada bị ung thư gan về VN đã chữa khỏi bệnh ung thư gan nhờ uống Lá Sả và Lá Đu Đủ, anh là bạn đồng nghiệp, có học thở thiền Khí Công Y Đạo để luyện khí luyện thần, giữ được nhịp tim trong tiêu chuẩn, và ăn uống để bổ Tinh mới là phần quan trọng, nên khí huyết không bị rối loạn, và khi dùng thuốc, anh biết tình trạng khí huyết trong người trở lại bình thường mới khỏi bệnh được.
Những thứ thuốc cây cỏ gọi là thần dược này, đã có nhiều người chữa khỏi thì ít, nhưng chết thì nhiều, vì những vị thuốc này khi sử dụng không theo dõi nó có công dụng thay đổi khí huyết trong con người mình như thế nào, tốt hay xấu, làm áp huyết tăng hay giảm đúng theo nhu cầu mình cần hay không, mới là thuốc chữa đúng bệnh.
Cách chữa đơn giản của môn Y Học Bổ Sung là điều chỉnh lại Tinh-Khí-Thần hòa hợp.
a-Chữa về Khí lực :
Đối với bệnh nhân áp huyết cao chữa nhanh hơn :
Đánh chữ : Video Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng lên Internet rồi tập theo 600 lần thật chậm đều làm nhịp tim đập đều trong tiêu chuẩn 70-80. Đo áp huyết trước và sau khi tập sẽ thấy áp huyết xuống.
Trong khi tập cảm thấy mệt không tập nổi là dấu hiệu cơ thể thiếu đường, cần uống thêm 2 thìa nhỏ mật ong rồi tập tiếp cho đủ số để cho cơ thể xuất mồ hôi độc.
Nếu chán ăn, thì tập 300 lần trước khi ăn làm trống bao tử và kích thích gan tiết mật và chất chua làm bụng đói đòi ăn, sau khi ăn, nghỉ ngơi 30 phút rồi bắt đầu tập 600 lần để giúp bao tử nhồi bóp thức ăn nhuyễn thành chất bổ máu nuôi tế bào, và tập nhiều 600 lần cho khí huyết âm của thức ăn chuyển hóa ra khí dương là năng lượng khí và máu đi khắp mọi nơi mọi chổ, đông y gọi là Vị-khí cung cấp khí mới, để thay cũ đổi mới, đến đủ 5 tạng là tim, phổi, thận, gan, cho thông khí toàn thân, không còn chỗ nào ứ nghẽn tắc và làm tan sự kết khối của tế bào, làm hết đau đớn. Đưa dẫn oxy vào tận từng tế bào để Carbone trong tế bào thoát ra, đưa máu mới vào phục hồi tế bào bệnh và làm mạnh tế bào lành, làm cô lập sự phát triển của tế bào bệnh, đây mới chính là Oxy liệu pháp để chữa bệnh ung thư, chứ không phải tập Tài Chi, Dưỡng Sinh, Khí Công, thể dục thể thao nào mà không có tác dụng làm thay đổi áp huyết xấu thành tốt được.
Có thể nếu khỏe tập thêm bài Cuí Lạy Chúa hay Lễ Phật, là vừa tập khí công, vừa tập thiền, vừa nhờ tha lực của Phật, Chúa, giữ tâm khí bình an.
Đánh chữ : Khí công trị liệu ( thầy Đỗ Đức Ngọc ) phần - 5 thực hành lên Internet cho những bệnh nhân Thiên Chúa Giáo tập theo mỗi ngày để luyện thở điều chỉnh Thần
Đánh chữ : Lễ Phật Trì Danh và Ngồi thiền Phản Văn Trì Danh lên Internet cho các Phật tử, rồi tập theo mỗi ngày để luyện thở điều chỉnh Thần.
Đối với bệnh nhân áp huyết thấp chữa lâu hơn
Vì phải phục hồi chức năng tạng phủ làm tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn, nguyên nhân do chức năng làm việc của bao tử đã hư yếu do không ăn được đã làm mất sức lâu ngày.
Cũng tập bài Kép Ép Gối trên 600 lần nhanh làm nóng người và làm nhịp tim đập nhanh, nhưng khi mệt phải uống 2 thìa mật ong rồi tập tiếp, thấy mệt lại uống 2 thìa mật ong rồi tập tiếp, nếu không thấy mệt thì không cần uống mật ong, khi xong 600 lần thì đo kiểm chứng lại áp huyết thấy tăng lên, kiểm tra đường thấy thiếu, dưới 6.0mmol/l là phải uống thêm 2 thìa mật ong hay đường nữa, nếu không các tế bào đang thiếu đường chuyển hóa để phục hồi sẽ rút đường trong cơ bắp sẽ làm teo cơ, hay không đủ đường nuôi cơ tim co bóp bơm máu tuần hoàn nuôi tế bào thì xem như buổi tập này không có giá trị chữa bệnh ung thư.
Riêng bài luyện khí luyện thần là bài Cúi Lạy, dành cho người áp huyết thấp thì không đọc ra tiếng, hay không cần đọc, chỉ nghe theo nhịp và nhìn hình tập theo, không làm mất khí, giúp khí lưu thông làm nóng toàn thân.
Cần nhất tập 2 bài này sau mỗi bữa ăn 30 phút, và 2 lần sáng tối để lúc nào trong người cũng dư thừa oxy.
b-Chữa về Tinh
Bổ máu không gì nhanh bằng tiêm B12, uống thuốc B12 liều cao 5000mcg, uống Multivitamines, ăn những thức ăn bổ máu, như mỗi ngày ăn phở, hay bún bò huế thay đổi cho khỏi chán, hai loại thức ăn này nuôi đủ chức năng 5 tạng, vì có vị đắng nuôi tim, vị ngọt nuôi tỳ, vị cay nuôi phổi, vị mặn nuôi thận, vị chua nuôi gan, giống như có 5 thằng con là Mặn, Ngọt, Chua, Cay, Đắng được nuôi đầy đủ thì chức năng khi hóa của ngũ tạng mới giữ được quân bình âm dương hòa hợp không thừa không thiếu, mau lên cân.
Nhớ rằng thức ăn bổ máu chỉ là huyết âm, cần tập khí công dư oxy chuyển huyết âm thành huyết dương máu đỏ. Kiểm chứng áp huyết trước và sau khi ăn xem số tâm trương là huyết có tăng lên lọt vào tiêu chuẩn hay chưa.
Theo đông y, muốn có bắp thịt thì tỳ vị phải có chất ngọt nuôi thịt, muốn tóc mau mọc thì thận phải mạnh thì thận cần chất mặm, muốn phục hồi chức năng gan tiết mật và tiết chất chua cho tiêu hóa nó cần chất chua, muốn tim hoạt đông mạnh thì cần chất đắng, nên tây y mới tìm ra cà phê tốt cho tim mạch, điều này đông y đã biết từ lâu, cơ thể thiếu 1 chất thì chức năng của tạng nào thiếu chất đò sẽ không hoạt động, như 5 ngón tay chặt đi 1 ngón tay sẽ làm yếu cả bàn tay.
Muốn dùng thêm các loại thần dược cây cỏ cũng thuộc về TINH là thuốc men và ăn uống, muốn biết có hợp với tình trạng bệnh ung thư của mình không thì đo áp huyết 2 tay để kiểm chứng trước và sau khi uống xem nó có làm cho áp huyết tốt hơn không, nếu không thì nó lại là chất giết chết mình nhanh nhất.
Cách chữa bệnh của đông y chỉ dùng thuốc tăng khí âm, huyết âm, chứ không có hướng dẫn tập khí công làm tăng oxy để chuyển khí huyết âm thành máu đỏ, hồng cầu.
Cách chữa ung thư của tây y là tiêu diệt tế bào mà không cho bổ, vì thấy rằng càng bổ thì tế bào ung thư càng to ra, vì không có khí lực chuyển hóa.
Ngành Y Học Bổ Sung giúp cho hai khuyết điểm này của đông y lẫn tây y trong cách chữa bệnh ung thư được đơn giản hoàn thiện hơn giúp bệnh nhân tự chữa, không phải để cơ thể chết dần theo năm tháng chờ đợi hiến tủy mà chưa chắc đã có và phù hợp, lúc đó chúng ta đã chết, thì tại sao trong lúc chờ đợi, chúng ta không chịu tập tăng khí bổ huyết để tế bào ung thư không thể phát triển nặng thêm..
Nhờ phương pháp tự chữa bệnh ung thư theo phương pháp Y Học Bổ Sung mà nhiều bệnh nhân của tôi đã thoát khỏi căn bệnh nan y này.
Có một bà đầm y tá trong 1 bệnh viện bị ung thư 10 năm nay, những người đồng bệnh với bà đã chết ngay sau khi chữa theo tây y, nên bà từ chối phương pháp chữa của tây y, nhờ tập khí công nên tế bào ung thư không phát triển thêm, tây y cho biết stable (ổn định, không phát triển thêm) nên lơ là việc tập khí công, mỗi ngày chỉ tập 50-100 lần, chỉ có nghĩa là tăng khí oxy thôi chứ không chịu dùng B12 và ăn thêm ngọt.
Bỗng nhiên một hôm bà đến nhờ tôi cứu bà, nhìn bà hôc hác xanh xao như sắp chết, bà nói bác sĩ nói tôi bị di căn toàn thân chỉ còn sống được 3 tuần. Tôi nói sao bà không bổ máu bằng viên B12 liều cao 5000mcg và uống thêm đường. Bà nói : 2 thứ này bác sĩ cấm, vì nó là nguyên nhân gây ra ung thư phát triển nặng thêm.
Tôi bảo, đằng nào bà cũng không còn sống được bao lâu, cứ áp dụng thử và tập bài khí công đủ 1200 lần 1 ngày xem có kéo dài thêm sự sống không, và tôi tập cho bà từ từ kéo gối được 1200 cái trong khi mệt uống đường đến 12 thìa mới tập xong, thì người hồng hào, hơi thở mạnh nói to, hết bị thở thoi thóp ngắn hơi như suyễn.