Wednesday 18 September 2013

S O N G T H Ấ T v à S O N G T H Ậ T - Trần Trung Chính

Song Thất có nghĩa là hai số bẩy, thường được hiểu là ngày 7 tháng 7. Sau khi dẹp tan các sứ quân, ổn định đời sống và sinh hoạt kinh tế của dân chúng miền Nam, chính phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc Trưng Cầu Dân Ý để truất phế Hoàng Đế Bảo Đại của triều Nguyễn vào ngày 26 tháng 10 năm 1955. Kết quả đa số dân chúng ủng hộ việc truất phế Hoàng Đế Bảo Đại : Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa. Khác với các chế độ dân chủ bình thường, hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm 1955, Tổng Thống và chính phủ có trước rồi mới bầu cử thành lập Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo Hiến Pháp. Ngày 7 tháng 7 năm 1956, Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa ban hành Hiến Pháp và Tổng Thống Ngô Đình Diệm chọn ngày 7 tháng 7 hàng năm là quốc lễ, đó là ngày Lễ Song Thất. (Ghi chú của người viết :  ngày 7 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Bác Sĩ Trần Văn Đỗ làm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam thay thế Luật Sư Nguyễn Quốc Định của nội các cựu Thủ Tướng Bửu Lộc)

Sau khi đắc cử Tổng Thống Mỹ vào cuối năm 1960 và nhậm chức vào tháng giêng 1961, Ban Tham Mưu của chính phủ Mỹ và Tổng Thống Kennedy đã có ý muốn thay thế chính phủ và Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mọi người đều biết rõ sự kiện này và đưa ra nhiều lý do khá hợp lý. Tất cả những biến động tại Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1960 cho đến đầu năm 1963 đều là những cảnh báo để Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra đi một cách êm ả, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu không  (chịu) hiểu, vì vậy option cuối cùng trong kế hoạch thay thế Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã được chính phủ Mỹ đem ra áp dụng, đó là tạo ra “biến cố Phật Giáo VN đang bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm – một tín đồ Thiên Chúa Giáo (có liên hệ mật thiết với Tòa Thánh Vatican ở La Mã ) kỳ thị và đàn áp”.

Trong không khí sục sôi đấu tranh của các tăng ni và phật tử mà chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm không thể vãn hồi trật tự, tình hình càng rối bời thêm nữa khi chính phủ Ngô Đình Diệm bắt bớ thêm các người bất đồng chính kiến (không dính líu đến các vụ rối loạn của Phật Giáo) và đem ra Tòa Án xét xử  (có lẽ để hù dọa các nhà sư lãnh đạo phong trào đấu tranh của Phật Giáo) , văn hào Nhất Linh đã tự tử vào đúng ngày 7 tháng 7 năm 1963 để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm, ông để lại một bức thư mà ý nghĩa của bức thư này cũng chính là một tác phẩm văn học cuối cùng, cũng nổi tiếng như con người của ông.

Trích dẫn : … “ Đời tôi để lịch sử xử. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia sẽ là một tội nặng sẽ làm mất nước trong tay Cộng Sản…”  . Hết trích

Ngày 6 và ngày 7 tháng 7 năm 2013, tại miền Nam Cali có một cuộc hội thảo về vai trò của Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn trong văn học Việt Nam, theo thông báo từ nhật báo NGƯỜI  VIỆT , Ban Tổ Chức gồm các ông : Giáo Sư Việt Văn Đỗ Quý Toàn (bút hiệu Ngô Nhân Dụng), ông Nguyễn Tường Thiết – con trai út của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam , ông Nguyễn Tường Giang – con trai của nhà văn Thạch Lam Nguyễn Tường Lân…Có 2 diễn giả là 2 giáo sư người Nhật  đến từ Tokyo thuyết giảng về đề tài này qua các khảo cứu về văn học Việt Nam của họ giảng dạy tại các đại học Nhật Bản. Buổi hội thảo này cũng là lễ kỷ niệm 50 năm ngày giỗ của văn hào Nhất Linh.
Văn nghiệp của văn hào Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn quá to lớn, hào quang của sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã che lấp những khiếm khuyết chính trị của lãnh tụ Nguyễn Tường Tam trong thời nhiễu nhương của đất nước Việt Nam giai đoạn 1945 – 1948. Tôi nêu ra 2 sư thật về  chính trị gia Nguyễn Tường Tam mà tôi gọi là SONG THẬT (để đối với  SONG THẤT cho cân đối), có người cho rằng tôi không nên nêu ra vì ông Nhất Linh qua đời đã lâu, ông không có điều kiện để tự biện hộ bào chữa …và viết ra sự thật não lòng như vậy thì sẽ làm giảm uy tín của ông…Tôi nghĩ rằng ông Nhất Linh đã viết “ Đời tôi để lịch sử xử…” thì những điều tôi viết ra đây chỉ để giúp cho hậu thế thêm dữ kiện nhằm đánh giá (kết tội + vinh danh) ông Nhất Linh một cách công bình và công minh hơn mà thôi.

Sự thật thứ nhất : Ông Nguyễn Tường Tam không có viễn kiến chính trị . Cũng như tất cả những người quốc gia yêu nước khác vào thập niên 40 của thế kỷ 20 như các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Hải Thần, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Vũ Hồng Khanh, Huỳnh Phú Sổ, Phạm Công Tắc…không có ai nghĩ đến Hoa Kỳ - một quốc gia nằm bên kia Thái Bình Dương, cách Việt Nam hơn 11,000 kilomet – lại là một đại cường sẽ chi phối chính trường Việt Nam hơn hẳn thế lực của cả 3 nước Pháp, Nhật, Trung Hoa gộp lại. Vì vậy tất cả những nhà cách mạng nói trên , dù thiện chí rất nhiều nhưng thất bại trong công cuộc mưu tìm sự độc lập cho quốc gia Việt Nam giữa những “gọng kềm lịch sử của Thực Dân Đế Quốc Pháp và Đế Quốc Cộng Sản”.

Sự thật thứ hai : Ông Nguyễn Tường Tam là người háo danh. Sau khi ông Hoàng Đạo qua đời đột ngột vì bị đứt mạch máu não trên chuyến xe lửa từ Liễu Châu đi Quảng Châu (thủ phủ của tỉnh Quảng Đông), các lãnh tụ VNQDĐ - trốn thoát khỏi sự tàn sát của Hồ chí Minh và đàn em –đã có cuộc họp tại Quảng Chậu để “kiểm điểm tình hình”. Ông Nghiêm Kế Tổ và luật sư Trần Văn Tuyên đã chất vấn ông Nguyễn Tường Tam “tại sao anh biết Hồ chí Minh sẽ tàn sát VNQDĐ mà anh vẫn hợp tác trong chính phủ liên hiệp? ”. Ông Nguyễn Tường Tam trả lời : “ Vì tôi muốn cái tên Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có tên trong lịch sử nước Việt Nam vừa thoát khỏi ách thuộc địa của Thực Dân Pháp !!! ” . Cả 2 người chất vấn ông Nguyễn Tường Tam đều im lặng theo đuổi những ý nghĩ riêng , theo như tâm sự của Luật Sư Trần Văn Tuyên thì: tuy không nói ra nhưng ông Nguyễn Tường Tam sẽ không còn được anh em trong VNQDĐ ủng hộ nữa vì làm chính trị mà chỉ dựa vào tính “lãng mạn” như nhân vật Dũng trong tiểu thuyết “Đôi Bạn” thì thất bại là điều không thể tránh được. Biết bao những đồng chí trong VNQDĐ bị bọn Cộng Sản giết trong những năm 1946- 1947- 1948 mà không biết tại sao mình bị giết.

Tôi biết sẽ có những người cho rằng tôi đặt điều bôi bác ông Nguyễn Tường Tam, nhất là ông qua đời đã lâu và không có cơ hội tự biện hộ , thậm chí cũng có người đòi hỏi các tài liệu văn tự dẫn chứng để chứng tỏ trình độ văn minh hiện đại, tôi xin trả lời chung như sau: năm 1995 , khi lái xe chở luật sư Nguyễn Hữu Hiệu  từ Santa Ana xuống Chula Vista (một thành phố nhỏ kề cận sát ngay San Diego) thăm luật sư Phạm Nam Sách, tôi được nghe 2 ông nhắc lại chuyện cũ nên mới biết chuyện này. Năm 1960, cả 3 luật sư Phạm Nam Sách , Lê Ngọc Chấn và Nguyễn Hữu Hiệu được luật sư Trần Văn Tuyên mời đến  văn phòng của ông để “bàn chuyện thời sự”.

Chú thích của người viết : Vào năm 1959-1960 , cả 3 ông Phạm Nam Sách , Lê Ngọc Chấn và Nguyễn Hữu Hiệu đều vừa mới gia nhập Luật Sư Đoàn , nên được  Luật Sư đàn anh Trần Văn Tuyên mời đến văn phòng nói chuyện thời sự thì cả 3 đều đến ngay (Luật Sư Trần Văn Tuyên vừa là đàn anh trong nghề vừa là đàn anh trong chính trường ). Luật Sư Phạm Nam Sách là tử tôn của VNQDĐ vì thân phụ của ông là Bí Thư của VNQDĐ tỉnh Nam Định kiêm  Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính tỉnh Nam Định, thân phụ của Luật Sư Phạm Nam Sách bị Cộng Sản thủ tiêu vào năm 1946 , nhưng ông là đảng viên của Đại Việt Cách Mạng Đảng  do ông Hà Thúc Ký làm Chủ Tịch Đảng. Khi ông Hà Thúc Ký làm Tổng Trưởng Nội Vụ trong chính phủ của Trung Tướng Nguyễn Khánh , Luật Sư Phạm Nam Sách và Giáo Sư Nguyễn Văn Canh là “tả phù hữu bật” của ông Tổng Trưởng Hà Thúc Ký . Luật Sư Lê Ngọc Chấn là một trong những “thủ lĩnh” của VNQDĐ, trong thời đệ nhị Cộng Hòa, ông được bổ nhiệm làm Đại Sứ của VNCH tại Anh Quốc. Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu là em trai của chánh án Nguyễn Hữu Hùng – làm Tổng Trưởng Bộ Lao Động trong thời Nội Các Chiến Tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ , khi mới trở thành Luật Sư vào năm 1960, do sự giới thiệu của ông bác là ông Hà Văn Vượng - Bộ Trưởng Bộ Tài Chánh  ,  Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu suýt trở thành con rể của ông bà Ngô Đình Nhu. Trong thời đệ nhị Cộng Hòa ông là dân biểu của Quốc Hội Lập Hiến (1966 – 1967) và là dân biểu của Quốc Hội Lập Pháp nhiệm kỳ 1971 -1975 . Dân biểu Nguyễn Hữu Hiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Định Chế tại Hạ Nghi Viện và ông là người duy nhất bỏ phiếu chống đối việc ông Dương Văn Minh thay thế Tổng Thống Trần Văn Hương bởi vì Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa không có điều khoản nào để trao quyền cho một ông “khơi khơi “ như ông Dương Văn Minh, thà rằng ông Dương Văn Minh đảo chánh để đoạt quyền Tổng Thống chứ Quốc Hội bỏ phiếu buộc Tổng Thống Trần Văn Hương  trao quyền cho ông Dương Văn Minh là một việc làm “vi hiến”.

Năm 1945, Luật Sư Trần Văn Tuyên là một thành viên trong phái đoàn những nhà cách mạng Việt Nam đi vào Trùng Khánh để được gặp Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, viên chức phụ trách Lễ Nghi của văn phòng Tổng Thống Tưởng Giới Thạch sắp xếp cho phái đoàn Việt Nam được Tổng Thống Tưởng Giới Thạch tiếp kiến 15 phút. Luật Sư Trần Văn Tuyên nói : “ Cụ Nguyễn Hải Thần có nhiều thiện chí nhưng cụ già nên quá lẩm cẩm, cụ đã dùng 8 phút để cà kê dê ngỗng chúc tụng sức khỏe “Tưởng Tổng Tài” làm Đại Tướng Hà Ứng Khâm – Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Trung Hoa Dân Quốc – phải chỉ vào đồng hồ đeo tay để nhắc nhở vì Tổng Thống Tưởng Giới Thạch bận lắm. Đứng sát cạnh ông Nguyễn Hải Thần, Luật Sư Trần Văn Tuyên  xin cụ đi thẳng vào vấn đề là xin Tổng Thống Tổng Thống Tưởng Giới Thạch giúp đỡ các nhà cách mạng Việt Nam. Nghe xong lời yêu cầu, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch liền quay qua Đại Tướng Hà Ứng Khâm ra khẩu lệnh : “ Chỉ thị cho Tư Lệnh Đệ Bát Lộ Quân tìm mọi cách giúp đỡ phái đoàn Việt Nam”. Vì háo danh và nghe lời dụ dỗ của 2 tướng Lư Hán (Tư Lệnh Đệ Bát Lộ Quân) và tướng Tiêu Văn ( Chính Ủy của Đệ Bát Lộ Quân) nên ông Nguyễn Tường Tam chịu gia nhập Chính Phủ Liên Hiệp do Hồ chí Minh chia xẻ bớt các chức vụ trong nội các. Đây là một quyết định sai lầm nghiêm trọng vì 2 ông tướng Tàu đã được Hồ chí Minh đút lót , nếu ông Nguyễn Tường Tam không chịu gia nhập Chính Phủ Liên Hiệp thì 2 ông Lư Hán và Tiêu Văn sẽ bị Đại Tướng Hà Ứng Khâm khiển trách (và có thể bị bay chức nữa là đằng khác vì Tổng Thống Tưởng Giới Thạch rất ghét Cộng Sản). Năm 1948, khi giải pháp Bảo Đại được người Pháp đề xướng, Hoàng Đế Bảo Đại cử người tiếp xúc với ông Nguyễn Tường Tam để mời vào nội các , nhưng ông Nguyễn Tường Tam từ chối vì VNQDĐ không còn đứng sau lưng ông để hậu thuẫn cho vai trò chính trị của ông nữa , chứ không phải như các nhà phê bình văn học cho rằng cộng tác với Hoàng Đế Bảo Đại tức là cộng tác với thực dân Pháp  nên ông Nhất Linh từ chối.

Ghi chú của người viết : người nào viết ra nhận định nói trên là những kẻ dốt nát về chính trị, bởi vì cộng tác với Cộng Sản thì tay chân thuộc hạ của mình bị giết và chính bản thân ông Nguyễn Tường Tam chạy thoát kịp sang Tàu… mà ông vẫn cộng tác. Trong khi cộng tác với người Pháp- mặc dù người Pháp là thực dân đô hộ nước Việt Nam – nhưng không có chuyện bản thân ông Nguyễn Tường Tam phải chạy trối chết mới toàn mạng như hồi 1946. Tôi viết ra những nhận xét này vì bây giờ -2013 , thuộc thế kỷ 21, những khoa bảng Việt Nam vẫn còn thích sự phỉnh gạt - nghĩa là vẫn còn đem tâm tình viết lịch sử văn học để ru ngủ bàn dân thiên hạ, không có ai đem lý trí chính trị như Luật Sư Trần Văn Tuyên đã trình bày cho 3 ông Luật Sư đàn em của ông hồi năm 1960. Nhận xét của tôi càng chua chát hơn khi Việt Cộng là bậc tổ sư  trong lĩnh vực “phỉnh gạt” vẫn tiếp tục  phỉnh gạt  qua các màn trình diễn “phản tỉnh cuội” , các màn “đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam” hay gần đây “thành lập Đảng Dân Chủ Xã Hội để đối trọng với Đảng Cộng Sản Việt Nam “.

Gần đây,nhân kỷ niệm 50 năm Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, trên diễn đàn điện tử đã xảy ra những lời qua tiếng lại quá ồn ào nhưng vô bổ của 2 phe bênh vực Tổng Thống Ngô Đình Diệm và phe đệ tử của tập đoàn tăng lữ Bình Trị Thiên : phe thân Cộng của nhóm Ấn Quang  ( nòng cốt của nhóm Ấn Quang là tập đoàn tăng lữ Bình Trị Thiên ) thì gọi phe bênh vực chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là nhóm HOÀI NGÔ , để đáp trả phe bênh vực chế độ của Tổng Thống Ngô  Đình Diệm gọi phe đối nghịch của mình là nhóm HOÀI HỒ. Tôi có dư lập luận và tài liệu để chứng minh những cái đúng và những cái sai của cả 2 phía, nhưng đó không phải là mục đích của bài viết này. Tôi chỉ nêu ra 2 sự thật về chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ( mà tôi gọi là SONG THẬT như tiêu đề bài viết) để độc giả suy nghiệm :

Sự thật thứ nhất : Vào thời điểm Thế Chiến thứ hai sắp chấm dứt, trong khi những nhà cách mạng Việt Nam (không phải là Cộng Sản) không có một ai nhìn ra Hoa Kỳ là một đại cường sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam vượt trội hơn 3 quốc gia Pháp , Nhật  , Trung Hoa cộng lại ; ngoại trừ một người duy nhất là ông Ngô Đình Nhu. Bởi vì không nhìn ra “vấn đề”nên cũng không có ai nghĩ ra được “ giải pháp “ để giải quyết vấn nạn của đất nước. Có một sự trùng hợp kỳ lạ là guồng máy tuyên truyền của Việt Cộng được dàn hợp xướng của đám lâu la tay sai của tập đoàn tăng lữ Bình Trị Thiên góp vào, lúc nào cũng ra rả kết án chế độ Diệm – Nhu là tay sai của đế quốc Mỹ : sự ồn ào bát nháo này thực ra là để khỏa lấp vai trò tay sai đắc lực cho Liên Xô và Trung Cộng của bọn Việt Cộng mà những kẻ đứng đầu là Hồ chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… cũng như  vai trò làm tay sai xung kích phá hại miền Nam của tập đoàn tăng lữ Bình Trị Thiên mà những tên thầy chùa như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Nhất Hạnh…cầm đầu.

Cái hay của ông Ngô Đình Nhu là ông đã nhìn ra vấn đề, đã tìm ra “giải pháp” giải quyết vấn đề nhưng ông chưa thấy thời điểm thuận lợi nên ông ẩn mặt chờ đợi. Qua sách vở nghiên cứu về Cộng Sản, ông Ngô Đình Nhu biết rõ bọn Cộng Sản ( Hồ chí Minh và các đàn em) nhắm mục tiêu là “chiếm đoạt quyền lực chính trị “ chứ chẳng có tinh thần Quốc Gia – Dân Tộc gì ráo ( Cộng Sản chủ trương Tam Vô : Vô Gia Đình – Vô Tổ Quốc – Vô Tôn Giáo ), cho nên những cá nhân + đoàn thể nào có nguy cơ cản trở việc “chiếm đoạt quyền lực” của bọn chúng, Hồ chí Minh sẽ ra lệnh giết ngay. Do đó, Việt Cộng đã giết ngay Ngô Đình Khôi , Phạm Quỳnh , Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Phú Sổ …(và nhiều người vô tội khác mà tôi không thể liệt kê hết trong bài viết này được) . Chúng ta thấy trong thời điểm tranh tối tranh sáng vào những năm 1945, 1946 , 1947 , 1948…Hồ chí Minh và đàn em không biết Ngô Đình Nhu là ai và cũng không biết rằng  Ngô Đình Nhu đã có những sáng kiến tuyệt vời cho người Quốc Gia, sáng kiến này hoàn toàn bất lợi đối với Việt Gian Cộng Sản.( Chú thích của người viết : nếu Hồ chí Minh biết được những gì ông Ngô Đình Nhu suy nghĩ thì chắc chắn Cáo Hồ sẽ ra lệnh WANTED đối với “kẻ thù của giai cấp vô sản chuyên chính” y như Tổng Thống  Bush ký lệnh WANTED đối với Osama Bin Laden  vậy ).

Sự thật thứ hai : tất cả những nhà khoa bảng + trí thức Công Giáo cũng như một số chính trị gia ưu ái với chế độ của Tổng Thống Diệm (mặc dù những người này không phải là tín đồ Công Giáo)đều lớn tiếng kết án chính phủ Kennedy đã lên kế hoạch lật đổ chính quyền của Tổng Thống Diệm cũng như lập kế hoạch giết hại 2 anh em ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Tuy nhiên cũng không có ai tìm ra nguyên nhân nào khiến chính phủ Kennedy phải “ thay ngựa giữa dòng” . Theo như nhận định chủ quan của riêng tôi : các chiến lược gia của Hoa Kỳ đã thay đổi chính lược và chiến lược để đối phó với Bắc Việt. Quốc Sách Ấp Chiến Lược của ông Ngô Đình Nhu sẽ thu hái được kết quả tốt đẹp với điều kiện nước Việt Nam chúng ta không có dãy Trường Sơn và không tiếp giáp với 2 quốc gia quá yếu về mặt quân sự là Cambodia và Lào. Thí dụ : Malaysia diệt trừ quân du kích Cộng Sản thành công theo kế hoạch của Sir Robert Thompson vì  bán đảo Malaysia 3 mặt đều là biển nên quân du kích Mã Cộng không được tiếp tế vũ khi đạn dược từ bên ngoài vào cũng như không được bổ sung nhân sự khi quân du kích bị tổn thất. Nam Hàn cũng được yên ổn vì bán đảo Triều Tiên có biển bao bọc chung quanh : Bắc Hàn muốn tấn công Nam Hàn thì chỉ có 01 con dường duy nhất là vượt vĩ tuyến 38, chọc thủng tuyến phòng thủ của 35,000 binh sĩ Hoa Kỳ trấn đóng với hỏa lực của bộ binh và hỏa lực của hạm đội Thái Bình Dương số 7 yểm trợ tối đa (tôi chưa kể hỏa lực của không quân từ hậu cứ Okinawa bên Nhật Bản ), một điều mà quân lực Bắc Hàn không thể làm nổi.

Các chiến lược gia Hoa Kỳ cho rằng Tổng Thống Diệm chống Cộng  một cách hăng hái, nhưng Quốc Sách Ấp Chiến Lược không triệt hạ được tiềm lực chiến tranh của Bắc Việt, điều đó cũng có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ bỏ cuộc vì cơ chế dân chủ không cho phép bất cứ Tổng Thống Hoa Kỳ nào theo đuổi một cuộc chiến quá 2 nhiệm kỳ 8 năm. Với tin tức tình báo thu thập được, Hoa Kỳ biết rõ Hồ chí Minh và đảng CSVN sẵn sàng hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng đế đoạt được quyền lực trên toàn đất nước Việt Nam . Nhưng còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu nắm giữ quyền lực thì Hồ chí Minh và Võ Nguyên Giáp không dám ồ ạt xua quân tiến chiếm miền Nam, mà chỉ mở chiến tranh du kích để làm hao mòn ý chí kiên nhẫn của dân chúng Hoa Kỳ. Đó là lý do, các chính khách Hoa Kỳ ra sức vận động (kể cả o ép và đe dọa) để Tổng Thống Diệm ra đi một cách êm ả. Nhưng có lẽ vì không hiểu lý do xâu xa và thầm kín của chính phủ Hoa Kỳ, nên Tổng Thống Diệm không chịu rời bỏ quyền lực, sau cùng tới năm 1963, Hoa Kỳ phải dàn dựng cuộc khủng hoảng Phật Giáo để thúc đẩy các tướng lãnh ra tay hành động. Theo như các hồ sơ được giải mật sau 30 năm dấu kín, cuộc điện đàm giữa đại sứ Henry Cabot Lodge và Tổng Thống Diệm sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963 chứng tỏ rằng chính phủ Hoa Kỳ muốn đưa Tổng Thống Diệm xuất ngoại, nhưng Tổng Thống Diệm không chịu xuất ngoại nên Hoa Kỳ bắt buộc phải áp dụng option B của kế hoạch, tức là phải  giết 2 anh em Tổng Thống Diệm : Hoa Kỳ không muốn sự tồn tại hiện hữu của chính quyền và cá nhân 2 anh em Tổng Thống Diệm sẽ làm hỏng kế hoạch “ dụ khị ” Hồ chí Minh và Võ Nguyên Giáp đem “đại quân” di chuyển ra khỏi Bắc Việt !!!

Là một tín đồ của Công Giáo La Mã, nhưng Tổng Thống Ngô  Đình Diệm chịu ảnh hưởng nặng nề  học thuyết Thiên Mệnh trong Nho Giáo : ông tin ông là Chánh Vì Vương được Trời ủy nhiệm cho vai trò cai trị miền Nam, ông cũng tin vào Đức Chúa Trời đã bảo bọc ông thoát khỏi những tai vạ trong những năm trước. Ông cũng tin rằng  có ông lãnh đạo VNCH thì sẽ cản trở được Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh, nhưng ông quên rằng các chính khách Hoa Kỳ đã đảo ngược sự tin tưởng của ông bằng câu nói : không có ông Ngô Đình Diệm, quân đội Hoa Kỳ sẽ vào Việt Nam nhanh hơn. Rồi sau khi 2 anh em ông bị giết, chính trường miền Nam được lãnh đạo bởi các tướng lãnh thiếu khả năng lãnh đạo đất nước, theo tôi, đó là bàn tay phù thủy của chính phủ Hoa Kỳ để “dụ khị ” Hồ chí Minh và Võ Nguyên Giáp ồ ạt xua đại quân vào “ xơi tái ” Việt Nam Cộng Hòa, sau đó những gì đã xảy ra cho Cộng quân Bắc Việt thì chúng ta đã biết rồi : Hoa Kỳ đổ bộ hơn nửa triệu quân vào Nam Việt Nam giao chiến trực diện với quân Bắc Việt và dùng Không Quân Chiến Lược ( B52) tiêu diệt cả triệu tinh binh của Bắc Việt.

Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên ghi lại, nước Tần cử danh tướng Bạch Khởi thống lĩnh hơn nửa triệu quân tiến đánh nước Triệu. Không có ai trong hàng võ tướng của nước Triệu dám đối đầu với Bạch Khởi, vì vậy vua nước Triệu phải triệu tập toàn thể văn võ bá quan để tìm người dám đảm nhận chức vụ Nguyên Soái  đương đầu với Bạch Khởi. Các quan đủ mọi ngành nghề tập họp kín cả sân triều đình nghe vua Triệu thuyết trình vế hiểm họa của nước Triệu. Toàn thể sân triều tập họp rất nhiều người nhưng im phăng phắc vì vấn đề quá to lớn đối với bá quan văn võ. Giữa bầu không khí im lặng rợn người đó, mọi người nghe một tiếng nói từ cuối sân vang lên : Tôi xin tình nguyện cầm quân đi đánh quân Tần. Bá quan văn võ quay lại nhìn người vừa phát ngôn , đó là một ông già giữ chức quan nhỏ lo việc đi thu thuế ngoài chợ có tên là Triệu Xa. Vua Triệu mời Triệu Xa đi lên sát với ngai vàng và hỏi : “Nhà ngươi có biết là khi cầm quân đánh với quân Tần, nếu thua trận, gia đình họ hàng còn bị tru di tam tộc không? “ . Triệu Xa đáp :   “ Tôi biết điều đó, nhưng tôi có phương cách để chiến thắng Bạch Khởi  ”….( người viết bỏ qua những tình tiết mô tả tài dụng binh của viên quan thu thuế Triệu Xa để độc giả biết rằng Triệu Xa đã đánh tan đạo quân trên nửa triệu binh lính của Bạch Khởi , nhưng Bạch Khởi chạy thoát được ) … Từ biên thùy, nguyên soái Triệu Xa báo cáo kết quả trận đánh cho vua Triệu , ông không khoa trương thành tích là đã giết nhiều binh lính của Bạch Khởi , cũng không tự bào chữa khi ông để cho Bạch Khởi chạy thoát, tờ biểu báo cáo của ông chỉ ngắn gọn với mấy chữ : “ …nước Tần phải mất 10 năm nữa mới có thể tái chiến…”

Áp dụng vào chiến trường Việt Nam , Hoa Kỳ không thể đem nửa triệu quân tấn công vào Bắc Việt để phá hủy tiềm lực chiến tranh của Bắc Việt, cho nên các chiến lược gia của Hoa Kỳ phải nghĩ cách “dụ khị” Hồ chí Minh  và Võ Nguyên Giáp chịu chuyển cả triệu quân vào Nam để hỏa lực của bộ binh (Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa ) tiêu diệt khoảng 1.5 triệu binh lính Bắc Việt , còn lại 1.5 triệu binh lính Băc Việt bị tổn thất do hỏa lực của Không Quân Chiến Lược Hoa Kỳ ( B52) . Nước Tần chắc chắn là lớn và đông dân hơn Bắc Việt  , vậy mà mất nửa triệu quân nên phải mất 10 năm mới có khả năng tái chiến , lãnh thổ Bắc Việt chỉ chừng hơn 150 ngàn kilomét  vuông với dân số khoảng 25 triệu, vậy mà chịu tổn thất khoảng 3 triệu tinh binh trong vòng 10 năm thì biết bao giờ mới có khả năng tái chiến ???

Anh bạn Tăng Quốc Thắng của tôi , tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương Pháp tại Đại Học Văn Khoa Huế, làm phụ khảo (assistant) tại Đại Học Văn Khoa Huế ,  rất thán phục nhà văn Hoàng Hải Thủy khi ông Hoàng Hải Thủy thoát dịch quyển tiểu thuyếte có tựa đề MALDONNER của một nhà văn Pháp. Ông Hoàng Hải Thủy đặt tựa đề là  NGOÀI CỬA THIÊN ĐƯỜNG cho bản dịch Việt ngữ của ông. Ngoài cửa Thiên Đường cũng có nghĩa là Ông Trời trừng phạt hành hạ con người bằng cách cho người đó được lên Thiên Đường nhưng không cho vào Thiên Đường mà bắt những người đó chỉ đứng ngoài cửa nhìn ngắm những người bên trong thụ hưởng hạnh phúc của Thiên Đường !!!

Một hình thái khác của MALDONNER cũng được nhà văn Đặng Trần Huân trong tập truyện CHUYỆN CẤM ĐÀN BÀ mô tả như sau :Có một người đàn ông khi còn sống thuộc loại “sáng say, trưa xỉn, chiều la liệt, tối đi …quậy” , đến khi chết bị đày xuống địa ngục. Quỷ sứ dẫn anh ta đi qua những phòng giam lớn để tới chỗ dành cho anh ta , nhìn qua song sắt của các cửa phòng giam, nơi nào anh ta cũng thấy có đàn bà mặc bộ đồ tắm bikini đi qua đi lại chung quanh bọn đàn ông bị nhốt chung trong phòng , trên bàn thì lại có những chai rượu và chai bia rải rác ngả nghiêng . Khi quỷ sứ tống anh vào phòng giam, anh bước tới hỏi một người đàn ông mặt mày bí xị đang rầu rĩ  buồn nản , anh chàng “ tân binh” phát biểu : “ Trời , ai nói xuống địa ngục là khổ đâu nào,  nơi đây cũng có đàn bà và bia rượu…” . Anh chàng mặt mày bí xị ngắt lời của anh tân binh liền : “ Coi vậy mà không phải vậy đâu cha nội, ở dưới  ĐỊA NGỤC này, cái chai thì có lỗ, còn đàn bà thì không, bởi vậy tụi mình không làm ăn được gì hết !!! ”

Nhà văn Trần Văn Giang khi viết đoản văn có tựa đề NẾU VIỆT NAM CỘNG HÒA THẮNG…thì tôi nhận ra ông bạn của tôi không hiểu Cộng Sản bằng các chiến lược gia Hoa Kỳ. Các chiến lược gia Hoa Kỳ biết chắc chắn rằng trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa không thể thắng được, giản dị vì chúng ta không thể tiêu diệt nguồn nhân lực của Bắc Việt cứ liên tục đổ vào miền Nam xuyên qua dãy Trường Sơn, ngay cả Đại Tướng Williams Westmoreland khi viết hồi ký cũng đã từng than vãn  “…quân lực Hoa Kỳ chiến đấu tại Việt Nam không được phép…chiến thắng”. Vậy tại sao chính phủ Hoa Kỳ đưới thời Tổng Thống Richard Nixon lại chịu ký Hiệp Định Paris 1973 để rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam ?

Câu trả lời là : sau 8 năm trực tiếp tham chiến tại Việt Nam , quân lực Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng Hòa  đã hủy diệt được tiềm lực chiến tranh của Bắc Việt với 3 triệu tinh binh quân Cộng Sản Bắc Việt bị hạ sát ( trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, tướng Võ Nguyên Giáp đã phải sử dụng đến lực lượng dự trữ là các thiếu niên 15 – 16 tuổi mà vẫn không chiến thắng) cho nên Bắc Việt không còn khả năng tái chiến để làm tên lính xung phong thực hiện bành trướng lãnh thổ của Đế Quốc Cộng Sản nữa.

Năm 1984, Tổng Thống Richard Nixon viết quyển sách có tựa đề NO MORE VIETNAM, mọi người hiểu rằng Tổng Thống Nixon muốn nói chính phủ Hoa Kỳ sẽ không để xảy ra một trường hợp thứ hai như đã xảy ra tại Việt Nam, nhưng cũng với nhận định chủ quan của riêng tôi , Tổng Thống Nixon muốn nói : “ sẽ không còn lãnh tụ ngu dốt nào  trên thế giới dại dột đem sinh lực của quốc gia mình thử lửa với Hoa Kỳ nữa ”. Những biến động tại Trung Đông gần đây như tại Tunisia, Lybia, Ai Cập, Syria… cho thấy là các lãnh tụ Hồi Giáo cực đoan đã đi vào con đường của Hồ chí Minh , Lê Duẩn , Võ Nguyên Giáp đã làm . Tổng Thống Obama khi đọc diễn văn tại Cairo năm 2009 bày tỏ thiện chí của Hoa Kỳ là muốn hòa giải hợp tác với khối Hồi Giáo, khốn nỗi mấy ông Hồi Giáo cực đoan lại hiểu là Tổng Thống Obama đang xuống nước phải năn nỉ họ, nghĩa là bài diễn văn của Tổng Thống Obama không làm giảm được sự thù hận người Mỹ và nước Mỹ của người Hồi Giáo. Cho nên , chính phủ Mỹ gây sức ép đòi hỏi Tổng Thống Mubarack phải từ chức. Cũng giống như Tổng Thống Diệm, Tổng Thống Mubarck đâu có chịu từ chức ngang xương như vậy, chính phủ Mỹ kín đáo lật đổ ông Mubarack thông qua Cách Mạng Hoa Lài…Rồi cho tổ chức bầu cử với kết quả là phe Huynh Đệ Hồi Giáo thắng thế. Chưa được một năm, phe Huynh Đệ Hồi Giáo đòi sửa hiến pháp để luật Hồi Giáo thay thế luật quốc gia, giới trẻ và phụ nữ đâu có chịu, họ đã xuống đường biểu tình phản đối ông Morsi và nhóm Huynh Đệ Hồi Giáo với những đám đông xuống đường lên đến hàng trăm ngàn người trên 14 thành phố lớn tại Ai Cập. Quân đội khuyến cáo Tổng Thống Morsi nên từ chức, trong khi Tổng Thống Morsi ngần ngừ do dự chưa quyết định từ chức thì một đám đông khác biểu tình ủng hộ ông Morsi  dùng vũ khí sát thương giết hại phe chống đối ông Morsi. Thế là quân đội  và cảnh sát Ai Cập ra tay lật đổ ông Morsi và thẳng tay trừng trị đám Hồi Giáo cực đoan, nhưng ông tướng cầm đầu cuộc đảo chánh ông Morsi không nắm chính quyền mà ông tướng này trao quyền cho ông chánh án đứng đầu Viện Bảo Hiến. Tổng Thống lâm thời của Ai Cập hứa sẽ tổ chức bầu cử vào năm tới 2014, tôi tiên đoán tình hình an ninh của Ai Cập sẽ từ từ được ổn định sau khi Hoa Kỳ (qua trung gian của quân đội Ai Cập, các lực lượng an ninh tình báo và cảnh sát Ai Cập) tiêu diệt được những phần tử chủ chốt của nhóm Hồi Giáo cực đoan đã xuất đầu lộ diện trong 9 tháng cầm quyền của ông Morsi.
Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 chỉ là hành động MALDONNER của chính phủ Hoa Kỳ ban cho Cộng Sản Bắc Việt vì nếu giúp VNCH giữ vững được miền Nam thì chiến tranh vẫn còn tiếp diễn ( người Việt chúng ta chắc chưa quên câu nói của Hồ chí Minh  : “ dù cho có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn để thống nhất đất nước, chúng ta vẫn phải làm…” ) và nếu Bắc Việt đầu hàng thì chính phủ Hoa Kỳ lại phải tốn tiền mất công tốn của như kế hoạch Marshall đã giúp Tây Đức và Nhật Bản phục hồi hậu quả chiến tranh ( cách đây không lâu, tôi đọc trên net,thấy có một nhà văn viết phiếm luận đề nghị Đảng CSVN và Nhà Nước CHXNCN Việt Nam nên chính thức tuyên bố thua Hoa Kỳ để được Hoa Kỳ viện trợ tái thiết đất nước, chứ từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau khi tuyên bố ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975, thì cả nước VN không nhận được cái gì cả).

Bác sĩ Trần Quang Minh, nguyên giáo sư của Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp Sài Gòn, cựu Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nông Nghiệp của Bộ Canh Nông và cũng là cựu Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Thực Phẩm thuộc Bộ Kinh Tế và Ngoại Thương của chính phủ VNCH đã từng tâm sự với chúng tôi trên diễn đàn Nông Lâm Súc Groups là : “…tôi (Bác Sĩ TQ Minh) vẫn không hiểu tại sao chúng ta (VNCH) bại trận và thua như thế nào trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng mỗi khi nghĩ đến  ngày 30 tháng  4 năm 1975, lòng tôi vẫn cảm thấy ấm ức muốn khóc…”.

Tôi không có ý định sửa đổi dữ kiện lịch sử vì không ai có đủ thẩm quyền và tư cách để sửa đổi sự kiện lịch sử. Lứa tuổi của thầy Trần Quang Minh và của đám học trò như chúng tôi đều thuộc loại sắp sửa “nằm ngửa đếm sao trời” ( theo cách nói của nhà văn Mai Thảo). Tôi cũng không kỳ vọng là tất cả mọi người sẽ đồng ý với quan điểm và nhận xét của tôi trong bài viết này, nhưng thật là cảm khoái biết bao khi có những người đồng tình với ý nghĩ của tôi, bởi vì khi chúng tôi ra đi ra đi để “nằm ngửa đếm sao trời”  ít ra cũng lìa đời với tâm trạng thoải mái được giải thoát khỏi những ấm ức và ray rứt của kẻ bại trận mà không hiểu tại sao mình lại thua.
Trân trọng và cảm ơn tất cả độc giả đã theo dõi bài viết này đến tận cùng của bài viết.
Viết xong tại San José ngày 03 tháng 9 năm 2013
Trần Trung Chính

GÓP-Ý của Đọc Giả:

Tôi có một ý kiến nhỏ như sau : Xin tác giả mở Google hay You Tube về Ngô Đình Diệm sẽ có nhiều tài liệu nói về nhiều chuyện liên quan tới Ngô Dình Diệm (cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt) sẽ có chi tiết và ngày tháng khi nào Thủ Tướng Diệm về Saigon, khi nào Thủ Tướng Diệm chính thức nhận chức Thủ Tướng....các Đại diên Tôn Giáo, đoàn thể Chánh Trị, thân hào nhân sĩ họp để truất phế Bảo Đại, cùng ngày tổ chức truất phế Bảo Đại v.v.......
Ngày 7 tháng 7 năm 1954 ( ngày song thất)  là ngày thủ Tướng Diệm chính thức nhận chức vụ Thủ Tướng (sau khi Thủ Tướng Diệm về Saigon vào cuối tháng 6/1954. Ngày ban hành Hiến Pháp của Đệ Nhất VN cộng Hòa là ngày 26/10/1956 (Ngày Quốc Khánh). Tôi không giám lạm bàn thêm về nội dung bài viết vì phải có thời gian và tài liệu. Thấy một sự sai lầm qúa rõ ràng, qúa sơ đẳng về ngày song thất ( 7 tháng 7 ) nên Tôi gởi email này. Tôi tô đỏ 2 hàng chữ sai lầm qúa rõ ràng trong bài viết mà thôi.
 
Nguyễn Kim Dần (dankimng99@hotmail.com)
Đốc Sự Khóa 8 QGHC (1960-1963). Chuẩn Úy Khóa 4 Đồng Đế Nha Trang (1963)
Hiện định cư tại City Edmonton, tỉnh Alberta Canada từ 1980.

Anh Trần Trung Chính không nhận sự sai lầm của mình. Tôi không thể nói gì thêm. Để các Anh Chị Em phán xét.
 
Nguyễn Kim Dần

Date: Wed, 18 Sep 2013 08:45:18 -0700
From: tr_chinh89@yahoo.com
Subject: Re: Chuyen bai viet co tua de SONG THAT va SONG THAT
To: dankimng99@hotmail.com

Thua anh,
Ngay 26 thang 10 nam 1955 la ngay TRUNG CAU DAN Y, sau ngay nay Thu Tuong Ngo Dinh Diem chinh thuc tro thanh TONG THONG. Do do , Tong Thong Ngo Dinh Diem chon ngay 26 thang 10 la ngay QUOC KHANH. Nhu vay ngay SONG THAT la ky niem ngay ban hanh Hien Phap .
Tran Trung Chinh