Giữa tháng 7 năm 1971, tôi đang dẫn một trung
đội tăng phái hành quân theo chiến dịch Phượng Hoàng tại một quận lỵ thuộc Tiểu
khu Khánh Hòa thì bất ngờ nhận được lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu về Sài Gòn trình
diện. Đối với một sĩ quan cấp nhỏ, trung úy như tôi, đó là một tin vui lớn. Không
cần biết về làm gì. Ít nhất được xa chiến trường một thời gian.
Về Sài Gòn, tôi được Bộ Tổng Tham Mưu cho biết
phải đi Phnom Penh làm thông dịch viên Pháp ngữ cho Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự.
Từ ngày VNCH đưa quân sang xứ Chùa Tháp, nhiệm vụ của Phái Đoàn, như tên gọi,
rất cần thiết trong việc liên lạc giữa hai quân đội bạn. Nhận sự vụ lệnh, tôi nghĩ
đến nỗi thất vọng của ba mẹ tôi luôn mong ước tôi được làm việc tại Bộ Tổng
Tham Mưu, hay một nơi nào an toàn hơn. Cam Bốt, lúc ấy, cũng đang tơi bời khói
lửa.
I.
Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự :
Ở chơi Sài
Gòn ba ngày, tôi đi Phnom Penh
bằng C47, chuyến bay đặc biệt chở đồ tiếp tế cho Phái Đoàn. Hơn một giờ sau,
đến phi trường Pochengton. Trời nóng không thua gì Sài Gòn. Một thiếu úy còn
trẻ, kém tôi độ vài tuổi, mặt mày trắng trẻo, mang súng ru-lô xệ ngang hông như
cao-bồi Texas thứ... giả, trên mép gắn hờ điếu thuốc chưa đốt kiểu James Dean, một
chân gác, nhịp nhịp, trên cây cản phía đầu xe jeep trắng, mang bảng số
ẩn tế. Một tốp quân nhân, trong số có một thượng sĩ già, bước xuống máy bay,
lên xe. Thấy tôi còn đứng lóng ngóng, anh thiếu úy không chào, chỉ hất hàm hỏi,
“ông về Phái Đoàn hả, lên luôn, mắc cỡ gì nữa”. Dĩ nhiên, tôi thấy khó chịu, nhưng
tự nhủ, khoan đã, đừng nóng, sẽ tính sau. Một chiếc xe dân sự khác chở đầy vật
dụng đem xuống từ máy bay.
Xe chạy bon bon trên những đường phố vắng, và đặc biệt rất sạch, có những hàng cây thẳng tắp hai bên đường cành lá sum suê, và những vườn hoa rực rỡ sắc màu. Vừa lái, anh thiếu úy tự giới thiệu, Nguyễn An Hòa, và sau này, tôi biết thêm anh là con của Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh, Tham mưu trưởng Liên quân, ở trong Phái Đoàn, giữ một chức mà chính anh gọi đùa là “trưởng ban cà nhỏng”, muốn làm gì thì làm.
Độ nửa giờ sau, đến trụ sở Phái Đoàn Liên Lạc
Quân Sự, một building đồ sộ trên
đường Norodom. Tôi được đưa thẳng lên lầu hai trình diện Trưởng phái đoàn, Đại
tá Tô Văn Kiểm. Ông dáng gầy, tầm thước, rất ít nói, nét mặt khắc khổ, nhưng hiền
lành, đôi mắt biểu lộ một tấm lòng nhân hậu. Lần đầu gặp ông, tôi thấy có cảm
tình ngay và an tâm. Rồi ông dẫn tôi đến một phòng lớn, toàn là sĩ quan cấp tá
đang ngồi làm việc, và giới thiệu:
- Trung úy Nguyễn Kim Quý, thông dịch
viên mới của Phái Đoàn.
Phnom Penh , 1971
Có đủ các
Phòng Ban, các ngành Hải, Lục, Không quân. Tôi còn nhớ bên Hải quân có Thiếu tá
trẻ tên Trần Kim Khôi, Không quân có Trung tá phi công già Trịnh Hảo (?) Tâm. Có
Trung tá Nguyễn Kiên Hùng, TQLC, người hùng trong vụ đảo chánh cụ Diệm năm 1960,
ở phòng 2 hay 4. Đặc biệt có Trung tá Nguyễn Văn Nam, trưởng phòng 5, chồng của nghệ sĩ Mộng
Tuyền, dáng dấp hào hoa phong nhã. Trung tá Nam bước đến vỗ vai tôi, bắt tay, thân
mật, nói liền một câu tiếng Pháp, giọng khàn khàn:
- Bienvenue
à Phnom Penh, mon frère!
Dân CTCT có khác, tôi khen
thầm. Đại tá
trưởng Phái Đoàn cho tôi nghỉ ba hôm, để quen nước quen cái. Ngủ trong dãy
phòng sĩ quan cấp úy, gồm các phi công, sĩ quan hải quân, và bộ binh biệt phái công
tác ngắn hạn, nghĩa là mới thấy đó đã biến đâu mất. Ăn tại “phạn xá”, dành cho
sĩ quan cơ hữu, nghĩa là làm việc thường trực tại Phái Đoàn. Mỗi người góp tiền
hàng tháng cho hai binh sĩ “hỏa đầu quân” đi chợ và nấu ăn chung.
Nguyễn
An Hòa đưa tôi đi thăm một vòng building:
phòng truyền tin, tiếp liệu, nhà bếp, nhà tắm, phòng ngủ của các hạ sĩ quan,
binh sĩ. Tất cả các ông “ma cũ” đều chào đón tôi vui vẻ, niềm nở, khiến chàng “ma
mới” thấy tự tin hơn. Phòng Y tế có một bác sĩ và một y tá. Y sĩ trưởng là
Thiếu tá Trương Kim Thành rất cởi mở, dễ mến. Sau này, khi rảnh việc, tôi hay
mò đến phòng Y tế, không phải để xin thuốc, vì lúc ấy còn trẻ đâu cần, nhưng để
tán gẫu với anh về đủ chuyện, kể cả văn chương, nghề của tôi, và chữa bệnh hoa
liễu, nghề của chàng.
Tôi
được chia văn phòng với Thiếu tá Son Sanjivith, sĩ quan liên lạc của quân đội Cam
Bốt tại Phái Đoàn VNCH, sáng đến chiều về, luôn mặc quân phục kaki vàng ủi
thẳng nếp, mang cấp bậc trên cầu vai như lon Pháp, đeo kính trắng, dáng dấp
quan văn hơn quan võ. Son Sanjivith nói anh là con ruột của cựu Thủ tướng Cam
Bốt Sơn Ngọc Thành –thủ tướng năm 1945 và 1972, bị ám sát hụt, đày về Việt Nam,
rồi sau 1975 bị Việt Cộng bắt và chết trong khám Chí Hòa năm 1977– và cháu của
chính trị gia Sơn Ngọc Minh. Tôi cũng không hỏi thêm. Anh không nói được tiếng
Việt. Buổi sáng đầu tiên tôi vào nhận việc, anh pha cà-phê mời uống, nói chuyện
bù khú với nhau gần một giờ xài nhiều tiếng lóng Pháp, cười thích thú, bên khung
cửa sổ, nhìn xuống con đường phía sau, song song với đại lộ Norodom. Rồi ai về
bàn nấy. Anh ngồi cuối phòng, còn tôi gần cửa ra vào.
Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự không có thông dịch
viên khá lâu, vì người tiền nhiệm của tôi, mãn hạn ba tháng, chưa có ai thay, nên
giấy tờ ứ đọng. Giấy tờ không có gì “mật”, cũng thường thôi, một số đã mất thời
gian tính, của quân đội –đôi khi của chính phủ– Cam Bốt, viết bằng tiếng Pháp,
gửi Phái Đoàn, nhờ chuyển cho Bộ Tổng Tham Mưu Sài Gòn. Thông thường, trước khi
đến bàn thông dịch viên, văn thư đã được đọc bởi Đại tá Kiểm. Thư nào cần dịch
ra tiếng Việt, và ngược lại, ông ghi “à
traduire”. Thư trả lời, ông viết bằng tiếng Việt, mặc dù rất giỏi Pháp ngữ,
cũng như các trưởng phòng, nhưng ông muốn có một bản dịch do một “chuyên viên” chính
thức chịu trách nhiệm. Đôi khi ông gợi ý cho tôi trả lời thẳng bằng tiếng Pháp
những bức thư không quan trọng. Ông rất hài lòng về những bản dịch của tôi,
khen tôi trước các sĩ quan khác, và để tưởng thưởng, ông cho phép tôi, sau khi
nộp bản dịch trong ngày, được đi chơi tùy thích, không phải ngồi “làm cảnh” ở
văn phòng. Tôi thầm cám ơn Thượng Đế cho tôi thêm một vị chỉ huy quá tốt, giữa
những vị chỉ huy quá tốt khác trong suốt đời lính.
Được
phép, nhưng tôi lại không ra ngoài, thích ở văn phòng đọc sách, trừ khi Nguyễn
An Hòa đến rủ. Mà Hòa thì khoái đi lắm. Đúng hơn, khoái đi với tôi, có lẽ vì
đồng trang lứa, đồng cấp úy, có lẽ vì tôi dễ tính, lôi đi đâu cũng được. Quen
nhau, tôi thấy Hòa là một người bạn tốt, thẳng thắn, dễ thương, không bao giờ nói
hoặc chơi xấu ai, dù bề ngoài có vẻ ngang tàng, bất cần của một công tử Con Ông Cháu Cha. Bên
ly rượu, giữa hai làn khói thuốc, Hòa thường tâm sự về cuộc đời, ái tình, sự
nghiệp của mình, và tôi được biết anh rất đắt đào, trong số có một ca sĩ cải lương
trẻ đang lên mà anh xem như bồ ruột –đôi lúc dự tính “rước em dzìa dzinh luôn”,
anh vui miệng kể.
Ra phố,
Hòa và tôi diện áo quần dân sự, nhưng không quên lận lưng cây súng, just in case... Hòa thường khoe cây mini-Colt
dẹp, đẹp, nhỏ xíu, như cái hộp quẹt ga, tôi không chắc bắn có chết ai không. Ngoài
những chiều Chúa Nhật dự thánh lễ tại nhà thờ Chánh tòa, nơi gặp gỡ của thành
phần thượng lưu Cam Bốt cũng như ngoại quốc, nhất là Pháp, tôi xuống phố, một mình
hay với Hòa, cũng chỉ để vào những tiệm ăn Tây, gần trụ sở Phái Đoàn gọi món poulet à la marengo hay civet au lapin, nhấm nháp vài ly rượu
vang Bordeaux chánh hiệu. Hoặc lòng vòng quanh Chợ Trung ương (Marché Central) gần
đại lộ Monivong và de Gaulle, ăn hủ tiếu
Nam Vang –gọi là chính gốc Nam Vang, mà dở
tệ hơn mì gói trụng nước sôi. Hoặc lượn trước cửa Lycée Preah Norodom, ngắm các
tiểu thư mặc đồng phục váy màu xanh đậm, mặt hoa da phấn, ríu rít tan trường,
mà lòng bồi hồi tưởng nhớ những bóng hình xưa cũ. Đôi khi Thiếu tá Son Sanjivith mời về nhà dùng cơm. Vợ
anh là người Cam Bốt, xinh đẹp, quý phái, lịch sự. Đáp lễ, thỉnh thoảng tôi mời
hai vợ chồng đi ăn những tiệm họ chọn. Theo lời khuyên của anh, tôi tránh vào
những bars rượu, có bia ôm dĩ nhiên, vì
người Miên, nhất là lính Miên hành quân trở về, súng ống đầy mình, không ưa
Việt Nam. Một lần, lỡ bước vô, Hòa và tôi bị họ nhìn với cặp mắt cú vọ, khiêu
khích, như chúng tôi đã nhìn lính Mỹ trong các quán bars ở Sài Gòn. Ngồi uống bia kiểu đó mất hứng và mất sướng. Ôm em
trong tay mà hồi hộp không biết ăn đạn lúc nào.
Thỉnh
thoảng, Trung tá Nguyễn Văn Nam cũng rủ tôi đi chơi riêng với ông. Khi thì ông gặp
một người Miên lai môi giới hỏi mua chiếc xe Mustang rẻ, đem về Việt Nam miễn
thuế, bắt tôi ngồi bên để ông lái thử xem máy chạy có tốt không. Khi thì đến ăn
tối tại nhà một chị Việt Kiều quen ông. Khi thì đi thăm Chùa Prasat Prak, còn gọi
là Chùa Bạc Chùa Vàng (sàn lót bằng hàng ngàn mảnh bạc và có một tượng Phật khổng
lồ đúc vàng), hay vào hoàng cung lộng lẫy son vàng, mái lầu cong vút, bất ngờ
nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng thướt tha của công chúa Bopha Devi, con vua
Sihanouk, nguyên trưởng đoàn múa ballet
hoàng gia, năm ấy 28 tuổi, ba đời chồng, đẹp mê hồn, bị giam lỏng cùng với gia
đình và nhiều mỹ nữ.
Ngoài
lương căn bản trong quân đội, do đơn vị gốc giữ hộ, các sĩ quan Phái Đoàn được
lãnh thêm tiền phụ cấp công tác hàng tháng bằng đô la xanh. Tôi cấp nhỏ, độc
thân, lãnh khoảng $180, đổi ra tiền riel,
vật giá lại rẻ, cũng đủ xài hết tháng, một cách đế vương, có khi còn dư chút
đỉnh.
Ban đêm, Phái Đoàn tự lo an ninh. Tất cả sĩ quan luân phiên
trực trại, tuần tra bên trong tường building
cùng với hai binh sĩ trang bị M16 và lựu đạn. Buổi sáng, nếu không có chuyện
gì, ghi vào sổ “rien à signaler”, vô
sự. Một vài đêm cuối tuần, không biết làm gì để giết thời gian, các sĩ quan,
chờ cho Đại tá Kiểm đi ngủ, gầy sòng phé đánh giải trí. Tôi và Hòa được rủ tham
gia. Ai không chơi, ngồi ngoài chầu rìa, tình nguyện đóng vai “thầy bàn”. Tôi
mang danh “thầy cúng”, vì thua triền miên. Trung tá Nam đánh rất bạo, mới nước thứ hai đã tố xả láng, tapis (Mỹ gọi là “all in”) liền, thua hết tiền, đứng dậy, tỉnh bơ,
nhưng thường thường ông thắng, vì đa số nhát, không dám bắt dù đoán ông tháu
cáy. Vài đêm, đang sát phạt, Đại tá Kiểm bất thần xuất hiện. Ông ghét cay ghét
đắng cờ bạc, nên la mắng tận tình, từ cấp trung tá trở xuống, ai nấy ngồi yên,
chịu trận. Nhưng qua hôm sau, ông vui vẻ trở lại, coi như không có chuyện gì
xảy ra. Những trận phé chui, vì thế, vẫn tiếp diễn trong hồi hộp.
Trở lại công việc dịch của tôi. Thực ra, lúc
đầu, tôi cũng vất vả với những danh từ quân sự và khuôn mẫu xã giao, cả Việt
lẫn Pháp, mặc dù nội dung không có gì khó khăn, gây cấn. Vài lá thư thường
xuyên than phiền về việc làm của một, hai đơn vị QLVNCH trong làng xã gần biên
giới. Vài thư chia sẻ tin tức quân sự, báo cáo, tổng kết công tác phối hợp. Một
số ít thư qua lại mang tính cách
ngoại giao như mừng Ngày Quân Lực VNCH, hoặc ngược lại, những lễ lớn của quân
đội Cam Bốt. Son Sanjivith cho tôi một quyển cẩm nang về cách viết công văn
bằng tiếng Pháp với những câu xã giao có sẵn. Cứ thế mà ráp vào. Sau hai tuần,
tôi quen, và bất kỳ văn thư dài ngắn, tôi chỉ đăm chiêu suy nghĩ một hồi, gõ máy
chữ hai mươi phút là xong. Rồi thay đồ dân sự. Tự do như gió.
Đôi
khi tôi đến sân tennis, gần phi
trường Pochengton, múa vài đường banh cho giãn gân cốt, kiểu trưởng giả học làm
sang, chứ không mong ăn cái giải gì. Nhờ
vậy, một ngày đẹp trời, nhân đi xem một trận đấu quốc tế tôi được gặp tại đó một
bạn JECU (Thanh Sinh Công Đại Học) cũ, xinh đẹp, vô cùng dễ thương, Yvette
Trương Tấn Trung, cựu sinh viên Dược Sài Gòn. Tha hương ngộ cố tri là một trong
tứ... vui. Cả hai hết sức ngạc nhiên, ôm chào nhau mà miệng cùng lúc hỏi nhau một
câu giống y chang: “Mais qu’est-ce que tu
fais ici?” (Nhưng mà toa làm gì ở đây?). Yvette lấy chồng người Cam Bốt,
bạn học trường Dược ở Paris, về Phnom Penh mở một tiệm thuốc Tây, cũng gần đó.
Hỏi thăm nhau nhiều chuyện mới, ôn lại nhiều kỷ niệm cũ. Yvette ghi cho tôi địa
chỉ và số điện thoại mời “toa hôm nào đến nhà tụi này chơi.” Tôi hứa, rồi lại
quên, cho đến ngày trở về Việt Nam, lên phi trường Pochengton, mới sực nhớ,
nhưng trễ quá, không làm được gì nữa. Điều đó làm tôi bứt rứt mãi. Sau 1975,
thỉnh thoảng tôi tự hỏi không biết Yvette và chồng con có thoát được nạn Khmer
Đỏ. Năm 1988, tôi ở Paris, tìm trong niên giám điện thoại tên Yvette Trương.
May quá, gọi được. Tôi nói, xin lỗi đã không đến thăm ở Phnom Penh và mừng Yvette
và gia đình trở lại Pháp kịp, trước 1975. Lúc ấy, tại Paris, Yvette làm trong
một hãng bào chế thuốc.
Một hôm, bà Mộng Tuyền qua Phnom Penh thăm chồng. Thực
sự, tôi chỉ nghe tên bà, chứ chưa hề diện kiến dung nhan và cũng chẳng biết bà
hát tân nhạc hay cổ nhạc nữa. Quả thật, danh bất hư truyền. Bà rất đẹp, nước da
trắng như trứng gà bóc, lại lịch thiệp, gọi tôi bằng “chú” (em). Nhân dịp, Trung
tá Nguyễn Văn Nam rủ tôi cùng đi với ông bà, và vài sĩ quan khác, thăm trại
Việt Kiều Phnom Penh, gần bến tàu, dưới quyền kiểm soát của chính phủ Miên. Năm
1970, sau khi Lon Nol, với sự trợ giúp của hoàng tử Sirik Matak lật đổ vua
Sihanouk (Sirik Matak thuộc dòng chính, đáng lẽ lên ngôi vua, nhưng Pháp chọn
Sihanouk, nên rất hận ông này), những người Việt Nam, dù sinh trưởng tại Cam
Bốt đã lâu đời, đều bị bắt giết dã man trong thảm nạn “cáp duồng”. VNCH phản
ứng chậm, và hàng ngàn người đã chết, như báo chí Việt Nam thời ấy tường thuật.
Một số được hồi hương. Một số chờ tàu hải quân chở về Việt Nam, như trại tập
trung Việt Kiều mà chúng tôi đến thăm. Xem như đi công tác CTCT và sợ bị “cáp
duồng” bất tử, chúng tôi được lệnh mặc quân phục và mang theo hai cây M16.
Trại
nằm trong khuôn viên một ngôi chùa lớn, trên một sân rộng, có hàng dây kẽm gai
vây quanh và rải rác cả trăm lều vải. Hầu hết là những gia đình, đầy trẻ em
nheo nhóc, làm ruộng hoặc đánh cá, không nói hoặc nói ít tiếng Việt. Da ngăm đen,
trông không khác người Miên, tay chân khẳng khiu vì thiếu dinh dưỡng. Cảnh sống
quá thảm thương. Tôi bước theo ông bà Trung tá Nam và Thiếu tá Khôi Hải quân,
thăm hỏi một số đồng bào. Một cô trẻ đẹp, khoảng mười tám, da trắng, môi thắm
tự nhiên, ngồi một mình buồn bã ở một góc lều. Chúng tôi dừng lại. Thấy tôi, cô
nghẹn ngào khóc:
- Anh cứu em với.
- ?
- Cả gia đình em ở Kompong Thom bị giết chết
hết. Em chạy trốn được xuống đây. Em chưa có chồng, anh lấy em đi, em mới thoát
được chỗ này.
Tôi
biết cô nói thật, và có thể với nhiều người khác, vì quá tuyệt vọng. Trung tá
Nam nhìn tôi, rồi nhìn cô, an ủi:
- Tàu Hải quân sắp lên đón đồng bào về Việt Nam. Cô đừng lo.
Còn tôi móc bóp, tặng cô một trăm riel,
tương đương năm đô. Cô lắc đầu, không lấy, khóc nức nở thành tiếng. Tôi đặt số
tiền dưới chân cô, chào và đi thẳng. Viết đến đây, tôi thầm hỏi, cô giờ này ở đâu,
còn sống hay đã chết, hỡi cô gái tỵ nạn không biết tên, nạn nhân của chiến
tranh ngu ngốc và độc ác bởi loài người –một Barbara trong thơ của Prévert?
II. Soriya:
“Sweet Helen, make me
immortal with a kiss”
(Christopher Marlowe, XVIth
c., Faust)
“You gods [...] ought to be ashamed of yourselves! You are
always jealous...”
(lời Calypso nói với thần Hermès, trong The Odyssey của Homère, quyển V)
Tòa đại
sứ VNCH gần Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự, trên đường Norodom, nếu tôi nhớ không
lầm. Tôi chỉ đến hai lần. Lần đầu vào đầu tháng tám, 1971, khi ông Đại sứ Trần
Văn Phước mở một tối tiếp tân, tôi không nhớ nhân dịp lễ nào. Cả Phái Đoàn được
mời tham dự. Đèn hoa treo rực rỡ, sáng trưng. Có một số đại diện đồng minh, như
Mỹ, hay Lào, Nhật, Thái Lan, Miến Điện... Ăn theo kiểu self-service, rượu vang và champagne
uống thả giàn. Một cô Cam Bốt, tay cầm ly rượu, tay cầm đĩa thức ăn, đến bàn
tôi, xin ngồi cùng. Và tự giới thiệu, Soriya, thư ký đả tự của Tòa đại sứ Việt Nam . Cô nói
tiếng Pháp lưu loát, giọng trong vắt. Trong câu chuyện, cô hỏi tôi có phải là
Trung úy thông dịch viên, nghe danh Trung úy lâu rồi, hôm nay mới được làm quen
v.v... Cô dáng cao gầy, nước da bánh mật, có chiếc răng khểnh xinh xinh, nhưng lúc
ấy rượu vào, lại được ngồi cạnh người đẹp, tôi thấy cô quyến rũ khác thường, còn
hơn cả tiên nữ giáng trần. Lòng lâng lâng yêu đời, tôi bắt đầu trổ tài tán dóc, nghĩa là nói nhiều, nói dai, nói giễu, và biết
đâu nói vô duyên, hơn thường lệ. Cô kể, em quê ở Battambang, học tới Bac II, rồi
đi làm, hôm nào mời anh đi về quê em chơi... C’est promis? –C’est promis. Tôi
hứa đại.
Lần thứ hai tôi đến Tòa đại sứ, mười ngày sau.
Tìm gặp Soriya, một buổi trưa, không hẹn trước. Cô đang đánh máy, thấy tôi, vội
vàng chạy ra cửa, ôm hôn theo kiểu Đầm, mỗi má hai chiếc. Tôi mời cô buổi tối ra
phố ăn cơm.
Trong
tiệm, một lúc nào đó, tôi nói:
- Tên
em đẹp quá. Soriya có nghĩa gì vậy?
- Mặt
trời. Mặt
trời sưởi ấm những trái tim lẻ loi. Anh có tin là em cô đơn?
Tôi siết
nhẹ tay cô:
- Có. Bien
sûr. Người ta không nói dối khi nói mình cô đơn. On ne ment pas quand on dit qu’on est seul. Hình như câu đó của
James Jones trong Tant qu’il y aura des
hommes.
Rồi bỗng cô ngập ngừng, hỏi:
- Sao
anh lại chọn nghề này, em muốn nói, nghề lính, bắn giết nhau, hay ho gì?
Tôi
nhìn sâu vào mắt cô, để tìm xem có ẩn ý nào không, rồi chậm rãi trả lời:
- Trong
lúc đất nước chiến tranh, tôi không có sự chọn lựa. Đi lính càng không phải là một chọn lựa. Có lẽ tại số.
Trước khi biệt phái sang đây, tôi là lính chiến, đã bắn và bị bắn trả. Huề. Có
một điều bí mật tôi muốn chia sẻ với em mà em chưa được học từ bài học philo hay littérature nào. Đó là loài người chúng ta thường bị ganh tị bởi
những vị thần linh bất tử...
Cô im lặng, chưa hiểu. Sau một hớp rượu, tôi
tiếp:
- Tôi đọc ở đâu đó, trong L’Iliade hay L’Odyssée của
Homère, tôi không nhớ chắc, rằng các vị thần linh trong thần thoại vì là bất tử
nên thường hay ganh tị với loài người, ils
nous envient, tu sais, bởi vì chúng ta ai cũng phải chết một ngày, sớm hay chậm
hơn, năm năm, mười năm, ba mươi năm, bốn mươi năm. Cho nên, mỗi một ngày trần
thế của chúng ta, của em, của tôi trở thành đẹp vô ngần,
quý giá hơn cả ngọc ngà, châu
báu. Cũng trong L’Iliade, có đoạn
viết rằng các vị thần đứng đầu là Zeus, tức Jupiter, chia làm hai phe trong
cuộc chiến giữa thành Troie và Hy Lạp. Họ thèm được đánh nhau như loài ngưòi.
Tôi suy diễn, thèm được chết như loài người. Vois-tu, Soriya, les dieux qui sont immortels et ceux qui se croient
immortels n’ont pas le lugubre plaisir, ou plutôt l’agréable malheur, d’être
condamnés à mourir, à attendre la mort à chaque instant... comme nous tous,
comme moi, comme toi, d’ailleurs. Thần linh bất tử không có cái diễm phúc
bi thảm, nỗi đau thương dịu dàng được chết, được chờ đợi cái chết đến, từng phút,
từng giây, không có thảm kịch bị án phải chết bất cứ lúc nào, như kiếp người
mong manh. Như những người lính xông pha ngoài chiến địa... Không bao giờ tôi
thấy đời đẹp, và em đẹp hơn là lúc này, khi biết đâu ngày mai ta không còn thấy
nhau nữa. Em hiểu tôi chứ?
Soriya
suy nghĩ, trầm ngâm, hồi lâu, rồi nói:
- Em
hiểu và biết thêm nhiều điều lạ. Merci, mon
cher ami.
Trước khi chia tay, cô lại nhắc chuyện đi thăm
Battambang. Promis? –Promis. Tôi lại hứa.
Quá hạn ba tháng, tôi xin Đại tá Tô Văn Kiểm
cho về nước, mặc dù ông (và cả Hòa và Trung tá Nam) cố thuyết phục tôi tiếp tục
làm việc tại Phái Đoàn, thậm chí đề nghị cho nghỉ phép một tháng với gia đình,
rồi trở lại cũng được. Mặc dù rất nhiều người thích qua Phnom Penh, thay chỗ
của tôi. Tôi cũng không hiểu tại sao muốn về Việt Nam, trong khi không có vợ con,
người yêu để mà vướng bận. Có lẽ vì chán khung cảnh thành phố hàng ngày đơn
điệu, trống rỗng, và thấy nhớ núi rừng và mùi hương cau, hương bưởi của những
ngày hành quân qua các thôn nghèo và cánh đồng cằn cỗi, những trẻ em và phụ nữ
bị thương vì mìn Việt Cộng. Không còn ước mơ được làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu
Sài Gòn nữa.
Để khỏi bịn rịn, tôi không từ giã Soriya.
Lời hứa đi thăm quê nàng bay theo mây khói. Mười ba năm sau, 1984, tại trại tỵ
nạn Bataan, Philippines, chợt nhớ Soriya quay quắt, và ân hận vô vàn, tôi đến khu người Cam Bốt, tìm
nàng và hỏi thăm tin tức. Soriya? Không ai biết. Không chừng, năm 1975, Soriya đã
bị giết bởi bọn Khmer Đỏ, một người bảo tôi, vì là nhân viên của Tòa đại sứ
VNCH. Battambang “quê em” mỗi ngày một xa lắc lơ, biết bao giờ đến được? Tôi
bỗng nhớ lời tôi đã nói với nàng trong tiệm ăn năm xưa: “Những vị thần bất tử thường hay ganh tị chúng ta...”
Soriya có lẽ đã bị giết như hai triệu người Cam
Bốt đồng hương. Như, có lẽ, Thiếu tá Son Sanjivith. Như, chắc chắn, Sirik
Matak, cựu thủ tướng của họ.
III. Sirik Matak :
“My soul,
do not seek immortal life, but exhaust the realm of the possible”
(Pindar, 518-438BC, Pythian Odes, III, 109)
Sirik Matak
(1914-1975)
Hình lấy từ The Fall of the South, 1985
Một hôm, Đại tá Kiểm bảo tôi ăn mặc chỉnh tề, lên
chiếc xe Limousine hay Mercedes, tôi không nhớ, của Phái Đoàn, đi với ông đến
dinh Hoàng thân Sirik Matak, quyền Thủ tướng trong thời gian Lon Nol chữa bệnh
ở Hawaii . Để
họp, ông giải thích, cùng với những nhân vật quan trọng khác. Tôi biết Đại tá
Kiểm không cần sự thông dịch của tôi, mà không hiểu sao vẫn dẫn tôi theo, có lẽ
vì lòng mến dành cho tôi, tôi chủ quan nghĩ như vậy. Trong khi các vị họp hành,
bàn luận, tôi tìm chỗ ngồi phía dưới cùng, lắng nghe, quan sát.
Sirik Matak có nét mặt xương xương, người gầy,
dong dỏng, vẻ thông minh, nhã nhặn. Qua bài diễn văn ngắn bằng tiếng Pháp của
ông (tôi không nhớ chính xác câu nào, mà chỉ những allusions, liên tưởng xa xôi, bóng gió bằng ngôn ngữ ngoại giao, với
những động từ chia ở mode conditionnel
hay subjonctif, như nous ne croirions pas que..., tout nous aurait indiqué que..., quoi qu’on puisse en dire, nous aurions de
bonnes raisons pour...) tôi đánh hơi cảm nhận nơi ông một sự hoài nghi về những lời cam kết và lòng
trung thành của người Mỹ đối với Cam Bốt và sự dị ứng cá nhân đối với người
Việt Nam, dù Quốc gia hay Cộng sản. Nhưng ông nói rõ, ông cần sự hỗ trợ của Mỹ
và Nam Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống Cộng sản Bắc Việt, kẻ thù của đất
nước ông, đang được đỡ đầu bởi Trung Cộng (lúc ấy có tòa đại sứ, hay lãnh sự,
tại Phnom Penh). Đó là lần duy nhất tôi thấy ông.
Từ đó, tôi
không bao giờ nhớ đến Sirik Matak nữa.
Cho đến những
năm gần đây, tên ông bỗng trở về trong ký ức. Quả vậy, cứ mỗi dịp tưởng niệm
ngày 30/4,
đồng hương lại đem đăng tải và dịch trên báo lá thư từ chối đi Mỹ của ông gửi đại
sứ John Gunther Dean. Để tôn vinh ông như một anh hùng. Trong bức thư quá nổi
tiếng ấy –mà nhà báo và bình luận gia chính trị Gabriel Schoenfeld xem như một
trong những tài liệu quan trọng nhất của cả thời kỳ chiến tranh Việt Nam– có một
nhóm chữ mà không ai dịch đúng, từ dịch giả Phạm Kim Vinh (trong Tháng 4 đen, Vietnam xuất bản, 1988) đến
những bản dịch trên mạng, trong câu: “But mark it
well that, if I shall die here on the spot and in my country that I love, it is too bad [tôi nhấn mạnh] because we are all
born and must die one day”. Tiếng Pháp: “Mais, notez-le bien, si je meurs ici, dans mon pays que
j’aime, tant
pis, car nous sommes tous nés et nous
devons mourir un jour” (Olivier
Todd, Cruel Avril, nxb Robert
Laffont, 1987, tr. 274).
Phạm Kim Vinh
dịch hai chữ too bad (và tant pis) thành: “cũng chẳng
sao” (sđd, tr. 225). Chết cho quê hương mình yêu dấu đâu phải là chuyện nhỏ,
mà “cũng chẳng sao” ư? Còn trên mạng
thì được dịch: “đó là điều tệ hại”, hoặc tương
tự. Chết cho đất nước như thế, tại sao lại là “điều tệ hại”? Chứng tỏ người ta không hiểu rõ tâm tư của tác giả,
Sirik Matak, và lý do khiến ông, mặc dù nói cứng như vậy, vào phút chót đã chạy
vào lãnh sự quán Pháp để rồi bị đẩy ra nộp giao cho bọn Khmer Đỏ và sau đó bị
giết.
Quả vậy, too bad và tant pis, theo nghĩa thông thường và cảnh huống (contexte) của
bức thư phải được dịch là “mặc kệ tôi”: “...
Nếu tôi phải chết ngay tại đây, trên đất nước của tôi mà tôi yêu mến, thì cũng mặc kệ tôi, bởi vì tất cả chúng ta được
sinh ra và phải chết một ngày...” “Mặc kệ tôi” hàm
chứa một sự bất cần, và nhất là, ở đây, một sự uẩn ức, đối với đối tượng của
bức thư, tức là chính phủ Mỹ –đã quyết định bỏ rơi Cam Bốt. Nghĩa là, tôi có chết
thì cũng mặc kệ tôi, các người đừng thương tiếc làm gì, đừng nhỏ giọt nước
mắt cá sấu, v.v... Điều này rất “người” (humain), nghĩa là hợp với tâm trạng chán
chường, bất lực và ngôn từ bực bội, nếu không nói là hờn dỗi, của một
nhà lãnh đạo một nước yếu đang thấy mình bị phản bội bởi một đồng minh mạnh hơn.
Giận người đã đành, mà còn giận chính mình đã cả tin vào người Mỹ: “I have only
committed the mistake of believing in you, the Americans”. Câu đó
làm tôi nhớ bài diễn văn năm xưa của ông đã được nghe
trong buổi họp. Ông đã đúng khi nghi ngờ người Mỹ. Người Mỹ đã phản bội ông, quốc
gia của ông thật sự. Rõ ràng, trắng trợn. Cũng như đã phản bội kháng chiến quân
Cuba năm 1961 trong vụ Bay of Pigs, Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963, Việt Nam
Cộng Hòa năm 1975, quốc vương Shah của Iran năm 1979, và Tổng thống Ai Cập
Hosni Mubarak, đồng minh lâu đời, tháng 2/2011... Ví dụ còn nhiều. Cũng vì vậy
mà Sirik Matak mới từ chối đề nghị giúp đỡ ra đi bởi chính phủ Mỹ trong một lá
thư riêng gửi cho nhân dân Mỹ qua ông đại sứ Mỹ. Vấn đề chỉ là cá nhân giữa ông
và Mỹ. Như thế, không có nghĩa, và không có đoạn nào ám chỉ, ông sẽ từ chối mọi
sự giúp đỡ, nếu có, nếu cần, của những tòa đại sứ khác, chẳng hạn. Thế thôi.
Có như vậy
người ta mới hiểu tại sao ông đã xin tỵ nạn trong lãnh sự quán Pháp.
Phải công nhận bức thư của Sirik Matak, dù được
viết trong bối cảnh nào, quả là tuyệt vời. Bức thư với giọng nhẹ nhàng, lịch sự
mà vô cùng cay đắng, kiêu hãnh của một nhà lãnh đạo anh hùng, có khí phách, có
trách nhiệm, không đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Một bản cáo trạng hùng
hồn về sự phản bội, qua những câu bình dị, nhưng làm nhức nhối tâm can.
Bức thư tuyệt vời, so với bài diễn văn của Tổng
thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Chúng ta, những người lớn tuổi, còn nhớ buổi tối
21/4/1975, trong giờ tổ quốc lâm nguy, ông đã lên tivi, lúc thì đanh thép lúc thì nghẹn
ngào, để tố cáo Mỹ như thế nào về việc cúp viện trợ cho Việt Nam, nghĩa là bỏ rơi
Miền Nam, nào là “Hoa kỳ nuốt lời hứa. Bây giờ còn ai tin lời của người Mỹ?”, nào
là “chúng ta không thương lượng với Mỹ để có vài triệu đô la giống như chúng
ta đi trả giá ngoài chợ cá”, v.v... (xem các báo cũ Việt Nam và Mỹ như The New York Times, Los Angeles Times v.v...). Đặc biệt, câu cuối cùng: “Tôi từ chức, nhưng tôi không đào ngũ. Tôi
sẽ trở về với quân đội, chiến đấu sát cánh với các chiến hữu.” Năm ngày
sau, ông rời khỏi Sài Gòn trong một chiếc Mercedes bịt kín, do một đoàn xe CIA
hộ tống dưới quyền chỉ huy của Frank Snepp (cf George J. Church, “Saigon: The final 10 days”, Time Magazine, 4/24/1995), ra phi
trường, có
đại sứ Martin đứng chờ, để đi Taiwan trên chiếc máy bay C-130 sơn đen, với 15
tấn hành lý, và nếu ta tin lời Gabriel
Kolko (The Guardian, Oct 2, 2001) “có hai va-li lớn đầy vàng”, hoặc David
Lamb của tờ Los Angeles Times, “với
số vàng trị giá 15 triệu dollars” (and USD 15 million in gold).
Một số phận, hai nhân vật. Bức thư của
Thủ tướng Sirik Matak tuyệt vời, trên cả tuyệt vời. Cho nên đã được Henry
Kissinger đọc cho Quốc Hội Mỹ, để họ nghe thấm thía thêm nỗi nhục nhã và hối hận,
biết đâu! Cho nên được lưu trữ tại Thư Viện Quốc Hội Mỹ như một tài liệu quan
trọng, trong khi ở đó không có bức ảnh nào của ngũ tướng tuẫn tiết VNCH (tại
sao, mặc dù vì niềm tự hào truyền thống không ai trong chúng ta đòi hỏi phải có?).
Cho nên đã được người Việt tỵ nạn hàng năm đem ra đăng lại để tô rạng ngời thêm
tấm gương dũng liệt của một lãnh tụ ngoại quốc, một đồng nạn nhân của sự tráo
trở, phản trắc.
Nhưng, tiếp theo bức thư tuyệt mệnh ấy, vào
ngày 17/4/1975, ông hoàng, cựu Thủ tướng Sirik Matak đã chạy vào lãnh sự quán
Pháp, cùng với hai cận vệ –điều mà ít ai
biết, chú ý hay còn nhớ– và những viên chức cao cấp của chế độ:
Ung Boun Hor, chủ tịch Quốc Hội Cam Bốt, Long Boret, thủ tướng đương nhiệm, công
chúa Mam Manivane, gốc Lào, vợ thứ sáu của Sihanouk, con gái, con rể, và hai cháu
ngoại của bà, và nhiều người khác, không dưới một trăm. Dù không được mời. Dù bị
xua đuổi thẳng thừng, thô bạo, và giao nộp cho Khmer Đỏ ba hôm sau, để rồi tất
cả bị giết sạch, kể cả đàn bà con nít, bởi loài thú hung hãn mang hình người.
Tấn thảm kịch này được kể lại, kèm theo hình ảnh,
bởi nhiều nhân chứng, gồm những tác giả Pháp, Mỹ, Miên, từ Olivier Todd,
François Bizet (Le Portail, La Table
Ronde, 2000), đến Henry Kamm (Cambodia:
Report from a Strickenland, Arcade Publishing, 1998) v.v..., và những ký giả
quốc tế. Kể lại bởi những phiên tòa quốc tế xét xử bọn Khmer Đỏ. Và nhất là bởi
vụ kiện được thụ lý từ tháng 4/2008 tại tòa án Créteil, Paris, do bà góa phụ Billon
Ung Boun Hor, tác giả quyển Rouge barbare
(Ed. Respublica, 2009), khởi tố chính phủ Pháp đã ra lệnh nộp chồng bà cho
Khmer Đỏ –vụ án mà tất cả báo chí Pháp tường thuật, đang làm thức tỉnh và hổ thẹn
lương tâm người Pháp, cũng như bức thư của Sirik Matak, từ 36 năm trước, đã làm
thức tỉnh và hổ thẹn lương tâm người Mỹ.
Hoàng thân Ung Boun Hor, Chủ tịch Quốc Hội Cam Bốt, bị nhân viên Sứ
quán Pháp đẩy ra cửa giao nộp cho Khmer Đỏ, ngày 20/4/1975 . Hình trong báo Newsweek, số ngày 19/5/1975,
được luật sư của bà Billon Ung Boun Hor trưng ra trước tòa, để phản bác lập
luận của chính phủ Pháp cho rằng những chính khách Cam Bốt tự nguyện rời khỏi
Lãnh sự quán.
Chính phủ Pháp không xấu, nhưng trong vấn
đề chính trị, thường phá bĩnh, chọc gậy bánh xe, ganh đua với người Mỹ, vì mặc cảm hay hội chứng de Gaulle –chịu ơn Mỹ, nhưng vẫn ghét Mỹ. Tại Việt Nam, người
ta chưa quên hành động lăng xăng của ông Jean-Marie Mérillon và Tòa đại sứ Pháp
ở Sài Gòn giữa Dương Văn Minh và bọn Giải phóng Miền Nam và Cộng sản Bắc Việt trong
những ngày cận kề 30/4, tự nguyện làm trung gian cho một chính phủ trung lập, để
rồi bị bọn xâm lăng miền Bắc sau khi chiến thắng đuổi chạy có cờ. Thật ngây thơ,
như muôn đời họ vẫn. Và riêng ở Phnom Penh, tháng 4, 1975, con cháu của những
anh hùng Charlemagne, Jeanne d’Arc, và Napoléon đã quá hèn nhát, một cách độc ác,
tồi tệ.
Điều tôi
muốn bàn tiếp là tôi lấy làm tiếc, rất tiếc cho Sirik Matak –một người tôi đã
thấy, đã nghe, đã đọc. Giá ông vẫn ngồi đó, tại bàn làm việc, và nhận phát đạn
của Khmer Đỏ hay của chính mình! Bề nào thì cũng chết cho quê hương mà ông yêu
dấu, như ông đã viết trong thư. Giá ông đừng chạy vào lãnh sự quán của Jean
Dyrac! Để làm gì, nếu không mong bảo toàn sinh mạng và được cấp một trong 300 tờ
hộ chiếu mà luật sư Patrick Baudoin của bà Billon Ung Boun Hor nói Jean Dyrac đã
mang về Pháp còn trắng trơn? Như vậy, xin nhắc lại, việc Sirik Matak từ chối lời
mời của John Dean chỉ là vấn đề cá nhân giữa ông và nước Mỹ. Từ chối lời mời của
một đồng minh đầy quyền lực nhưng hai mặt, và gõ cửa một người bạn mình tưởng tử
tế, nhưng quá hèn mạt, xua đuổi mình trong lúc hoạn nạn, hành động nào đúng hơn?
Và trước khi bị giết, ông cựu thủ tướng có nghĩ rằng ông đã phạm một lỗi lầm nữa,
đó là tin vào người Pháp, cũng như trước kia ông đã tin vào người Mỹ (chỉ cần đổi
chữ the Americans thành les Français trong câu: “je n’ai commis qu’une erreur, ce fut de
vous croire et de croire les Français”)?
Tôi không có
ý phê phán Sirik Matak, vì tôi không là cái gì cả để dám xét đoán một vĩ nhân. Một
lần nữa, tôi chỉ tiếc cho ông. Bức thư tuyệt diệu kia đã đưa ông lên ngôi vị anh
hùng, héros, trong lòng tôi và dưới mắt
hàng triệu người. Việc ông chạy lánh nạn tại lãnh sự quán Pháp đã đem ông xuống
hàng mà tôi tạm gọi là “bán anh hùng”, demi-héros.
“Bán anh hùng”, tức một nửa anh hùng, nhưng vẫn hơn người phàm tục, như tôi,
như biết bao kẻ khác, gấp bội. Vẫn hơn những “đồng nghiệp” của ông bên kia dòng
sông Mê Kông như Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và
một số lỉnh (dấu hỏi) tướng Việt Nam... Vẫn hơn “đồng hương” Lon Nol lúc ấy còn
tắm nắng trên bãi biển Hawaii ,
và Sihanouk đang mở yến tiệc linh đình tại Bắc Kinh.
Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ
Ngô Đình Nhu trong chiếc xe thiết giáp, 2/11/1963
Hai tướng Nguyễn Cao Kỳ và Ngô Quang Trưởng trên hạm đội USS Midway, sáng 30/4/1975
(Hình
lấy từ quyển Vietnam, The Valor and the Sorrow của Thomas Boettcher, Boston, 1985)
Tuy
nhiên, cựu thủ tướng Sirik Matak có lẽ chưa biết gương tuẫn tiết của những anh
hùng trong lịch sử Việt Nam cận đại: Võ Tánh, Ngô Tòng Châu, Phan Thanh Giản, Hoàng
Diệu, đã không tìm đường thoát thân dù bị vây khốn, và quyết chết theo thành. Của
Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ cố vấn Ngô Đình Nhu, dù nếu có phạm khuyết
điểm gì đi nữa, đã tỏ ra là một nhà lãnh đạo cao cả, can trường, bằng cách
khước từ lời Cabot Lodge mời đến một nơi an toàn (cf Thomas Boettcher, Vietnam, The Valor and the Sorrow, sđd) và cũng không chạy vào bất cứ tòa
đại sứ nào, trên bước đường cùng, để rồi bị sát hại dã man mặc dầu đã đầu hàng
(hai ông bị trói và xác bị đâm nát) bởi bọn phản tướng. Của năm vị tướng Tư
lệnh của Quân Lực VNCH, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên
Vỹ, Phạm Văn Phú, đã tử tiết trong khi có đủ phương tiện ra đi. Của nhiều vị sĩ
quan và quân dân cán chính vô danh khác đã âm thầm tự kết liễu đời mình để khỏi
sa vào tay giặc. Hay, ít ra, của cựu Tổng thống Trần Văn Hương, qua bài viết mới
đây bởi sử gia Trần Gia Phụng (cf “Lịch sử phán xét”, Toronto , 29/1/2011 , trên website):
“Trước khi Sài Gòn sụp đổ,
ngày 28-4-1975 ,
đại sứ Pháp cho người mời tổng thống Hương di tản. Tổng thống Hương trả lời: ‘Nếu trời hại, nước
tôi mất, tôi xin thề là sẽ ở lại đây và mất theo nước mình.’
Sau đó, ngày 29-4-1975, đích thân đại sứ Hoa
Kỳ Graham Martin, cùng một viên tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp, đến gặp và mời
Trần Văn Hương ra đi. Hai bên nói chuyện bằng tiếng Pháp. Ông Hương trả lời: ‘Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay
rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó.
Nay ông Đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đã
suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng Cộng sản vào
được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam . Tôi là
người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một
phần nào niềm đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn
ông Đại sứ đã đến viếng tôi.’ Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời,
trong đó có câu ‘Hoa Kỳ cũng có phần
trách nhiệm trong đó’ (Les États Unis ont aussi leur part de
responsabilité…), đại sứ Martin nhìn trân trân vào ông Hương, rồi ra đi mà
chẳng bắt tay nhau.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa 10 ngày cuối cùng,
California :
Nxb. Nam Việt, 2006, tt. 352-355).
Những câu đầy khí tiết, quả cảm, kiêu hãnh trên, mặc dù chỉ qua lời người thứ ba kể lại, của cựu Tổng thống Trần Văn Hương cũng tuyệt vời, đâu kém
thua gì bức thư của Hoàng tử Sirik Matak, cựu thủ tướng Cam Bốt?
Sirik
Matak không biết điều này. Bởi vì, nếu biết, có thể ông đã phải suy nghĩ rất
nhiều trước khi chạy vào lãnh sự quán Pháp. Hoặc có thể ông không chạy đi đâu cả.
Để qua đó, mãi mãi, hàng năm, cứ mỗi 30/4, khi đọc lại bức thư khẳng khái của
ông, tôi và đồng hương và những thế hệ con cháu được hãnh diện trọn vẹn về ông –một lãnh tụ khác chủng
tộc, nhưng đồng hội đồng thuyền trong nỗi đau mất nước. Để qua đó, chúng ta hy vọng
thấy ông trong những miếu thờ tại một nơi nào trên đất Cam Bốt, cũng như các bậc
đại anh hùng của tổ quốc chúng ta trong những miếu thờ ở Việt Nam .
Những bậc đại
anh hùng mang hình hài của nhân thế, khác với các vị thần linh Hy Lạp cổ xưa, dù
đã trở thành bất tử, sẽ không bao giờ ganh tị chúng ta, vì họ đã đạt đến diễm phúc
bi thảm đợi chờ cái chết đến mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút –đặc ân mà chỉ loài người
khả tử chúng ta mới được nhận lãnh.
Điều đó, tôi cũng sẽ nói thêm cho Soriya nghe, tiếp nối
câu chuyện về thần linh năm nào dở dang, nếu một mai được gặp lại nàng ở kiếp này.
Hay kiếp khác.
Portland, 6 tháng
4, 2014
Gửi lại cho mỗi Tháng
Tư Đen