Friday, 14 December 2018

Hành Hương Đất Phật kỷ 6....

Bài viết trường kỳ về đề tài: "Hành Hương Đất Phật " của chúng tôi không hẳn là một bài viết chuyên về du lịch , hay hướng dẩn du khách đến đất Phật tại Ấn Độ.
Mà nhằm đi tìm những "mắc xích" bị mất đi (missing links) trong đạo Phật và văn hóa đạo Phật.

1.- Như bài viết trước đây , nếu không nhờ anh thanh niên người Anh , sang Ấn làm việc trong sở đúc tiền cho đế quốc Anh đang làm chủ nước Ấn...thì ngày nay chúng ta khong có Phật tích tại Ấn độ gì cả.

Đó là thanh niên James Prinsep đến Ấn vào năm 1819 là người đầu tiên đọc được loại chữ tối cổ của Vua Ashoka ( Vua A Dục ) cách đây trên dưới 2000 năm trôi qua ( Ashoka Brahmin Scripts )...thì giờ đây các phật tử của chúng ta sẽ khộng biết đến nơi nào Đức Phật đản sanh , nơi nào Đức Phật thành đạo dưới cây Bồ Đề linh thiêng tại Bodhgaya ( cách thù đô New Dehli gần 1000 cây số ) và nơi nào Đức Phật nhập diệt )

James Prinsep ( 1799 - 1840 ).

Nhờ thanh niên James Prinsep đọc được chữ tối cổ Ashoka Brahmin Script nầy mà Sir Alexander Cunningham mới chỉ chổ những cột đá , bia đá của Vua A Dục dựng nên trên vùng đất mà ngày xưa Vua Ashoka cai trị ( biên giới gồm luôn Pakistan , Afghanistan và một 1/3 xứ Ba Tư ( Iran ngày nay )...

 
Chữ cổ Ashoka Brahmin Scripts của Vua A Dục được giãi mã rỏ ràng cho hậu thế biết.
Đó là sắc lệnh của Vua A Dục , tuyên bố là từ nay sẽ theo con đường minh triết của Đức Phật mà cai trị dân của mình., lấy từ bi và bố thí làm gốc.

Nhờ công chỉ dẩn của Sir ..Cunningham cho nên chúng ta mới biết à nơi nầy là nơi Đức Phật đản sanh, nơi nầy là nơi Đức Phật thuyết pháp kinh Diệu Pháp Liên Hoa kinh và có nói đến Quan Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát ...vv..
Phần nầy đã post lên Internet xong.

Nay chúng tôi nói đến ngôn ngữ nào mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói chuyện với đệ tử , thuyết pháp và nhận các vị Vua cải đạo sang đạo Phật....hay với dân chúng thời đó.

Chúng ta cứ ngở là Đức Phật nói bằng ngôn ngử Ấn hiện nay . Không phải vậy.

- Như nếu ai là tín đồ Catholic là Chúa Jesus thời ấy nói tiếng gì , thì đại đa số đều nói là Chúa Jesus of Nazareth nói tiếng Do Thái như tiếng Do Thái hiện nay .
Không phải bao giờ.

Chúa Jesus lúc đó nói thứ tiếng " Aramaic " ( trộn lẩn với tiếng của dân Palestine và Ả Rập ) ,còn dân Do Thái thì nói tiếng Hebrew.

Nên nhớ gia đình Chúa Jesus là gia đình dân immigrant ( di dân ) , gốc ở Ai Cập.
Cho nên Hoàng Đế La Mã - Caesar Augustus ra lệnh toàn thế giới thuộc đế quốc La Mã phải về nguyên quán mà kiểm tra dân số.

Sự kiểm tra dân số là muốn biết dân số xứ ấy bao nhiêu , để thu thuế hay bắt lính.

Cho nên dân nào phải về lại nguyên quán của mình để làng , xã hay huyện kiểm kê.

Dân Palestine về Palestine , dân Ả Rập về lại xứ Ả rập .

Còn gia đình chúa Jesus thì phải về lại xứ Ai Cập.

Cũng vỉ kiểm tra dân số, cho nên Đức Mẹ Maria phải bầu bì cùng chồng mà rời phần đất của Do Thái , hướng về Ai Cập.

Dọc đường về quê quán , thì Chúa Jesus ra đời ở máng cỏ , ngoại ô thủ đô Jerusalem xứ Judea ( nay là Israel )...

Khi về đến Ai Cập ...thì lịch sử của đạo Catholic Roman vắng mất phần lịch sử nầy trong suốt gần 30 năm...khi Chúa Jesus trở lại xứ Judea ( Israel ) thì Ngài đã 30 tuổi rồi , dạy đạo Chúa được 3 năm....thì bị quân chính phủ đô hộ Roamn bắt xử về tội trọng hình là đóng đinh trên cây thập giá làm gương cho dân chúng đi qua lại phàn đồi núi Golgotha nầy.

Còn ngôn ngữ mà chúa Jesus xử dụng thời đó , nếu dân Do Thái có thể nói và nghe được tiếng Aramaic một cách không khó khăn lắm.

- Như người Viêt chúng ta hiện nay...nếu nghe tiếng Quảng Nam (miền Nam sông Thu Bồn )... thì chắc chắn chúng ta sẽ " lạng quạng " , hay " chới với " liền.

Vậy chúng tôi cho ví dụ vài bài thơ của người Quảng Nam nghe cho biết.

- Đột nát ngoài cơi , hấng đã bưa
Nồi cơm , niêu cá lã đun vừa.
Trách cá trả kem , bù nem mói.
Rào sau xách nặng , đặng ngơi trưa "

                       ***
" Trưa trời , trưa trât trể chợ rồi
Trộ nhau ngoài chợ để rồi lưa.
Trầu cau bọ mạ yên mang lại.
Mai mốt cấy dôn sướng mấy hồi ".

Vậy bạn dịch hết thừ xem sau nhé.

Tại sao chúng tôi nhắc đến người Quản Nam ỏ phần phía Nam sông Thu Bồn lại nói tiếng Việt kỳ kỳ lạ lạ hơn tiếng Việt của người Quảng Nam miệt phía bên kia hướng Bắc sông Thu Bồn.

Đó là do chuyện Chúa Trịnh Nguyễn phân tranh với nhau , chiến tranh với nhau.
Hai bên chọn sộng Giang làm biên giới và cấm cửa với nhau gần suốt 500 năm.
Cho nên lưu dân của Chúa Nguyễn bị cách ly với miền Bắc chúa Trịnh...và vì sống chung đụng với dân Chăm ( Champa ) , dân Chân Lạp...nên ngôn ngử có phần dị biệt.
***
Theo nhà học giả Thomas William Rhys Davids ( 1843-1922 ) thì ngôn ngữ của Đức Phật cách đây trên  là 2643 năm hơn . ( 624 + 2018  = 2632 năm , kể vào năm nay 2018 ) đó là ngôn ngữ Magadhi .

Ngôn ngữ Magahi language hay là Magadhi , hiện nay được nói ở tiểu bang Bihar , Orissa , Kharkhans và Tây Bengal .

Khoảng 18 triệu dân miền Bắc Ấn còn nói tiếng nầy.

Tiếng nói Magadhi về gia đình như sau :

English
Magahi/Magadhi
मगही/मगधी
Father
Baabuji / PitaJee
बाबूजी / पिताजी
Mother
Maiya / Maay
मईया / माय
Sister
Bahin / Didi
दीदी / बहिन
Brother
Bhaai / Bhaiya
भाई / भईया
Grandfather
Baaba / Daada
बाबा / दादा
Grandmother
Mama / Daadi
मामा / दादी
Sister-in-law
Bhaujai / Bhauji
भौजाइ / भौजी


Hội Văn bản Pali  nơi lưu trữ và phiên dịch kinh điển quan trọng của Phật giáo

NSGN - Hội Văn bản Pali (Pali Text Society) do học giả Thomas William Rhys Davids, một chuyên gia ngôn ngữ người Anh, sáng lập vào năm 1881 tại Luân Ðôn, Anh quốc. Mục đích của Rhys Davids khi sáng lập Hội là để khuyến khích và thúc đẩy việc nghiên cứu các kinh điển bằng tiếng Pali và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu Phật giáo Nguyên thủy.


Hội tiến hành xuất bản kinh điển Pali bằng ký tự La Mã, xuất bản những bản dịch bằng tiếng Anh và những tác phẩm liên quan như là từ điển Pali - Anh, thư mục, các sách giáo khoa dành cho học viên học tiếng Pali và một tờ tập san của Hội. 

Thomas William Rhys Davids (1843-1922) - sáng lập
Pali Text Society


Sir. Thomas William Rhys Davids ( 1843 - 1922 ) là nhà ngôn ngữ học chuyên về Ấn Ngữ, ông cũng là học giả uyên bác về chữ Pali và Phật học.

Giáo sư tại đại học Manchester ( lừng danh thời ấy ).

Ông bắ đầu nguyên cứu Ấn ngữ vói TS Stenzler .

Năm 1864 Ông sang Tich Lan làm việc cho chính phủ Hoàng gia Anh tại Tích Lan ( Sri Lanka ). Tại đây Ông học xong ngôn ngữ bản xứ Tamil và Sinhalese.
Lúc đó tại Sri Lanka chưa một ai thường dân xứ Sri Lanak đọc được chữ Pali Ấn nguyên thủy , Ông phải vào chùa Tích Lan mà học chữ Pali với Thượng Tọa Tiểu thừa - Yatramulle Unnanse.

Năm 1881 Ông lập ra Hội Pali Văn Bản Society tại Anh quốc. Được đại học London University mời làm Giáo sư chủ khảo.

Bắt đầu tứ đấy Ông có nhiều sinh viên theo học.

Từ đó Hội Nghiên Cuu1 Văn Bản Pali Society càng ngày càng lớn mạnh.

Từ đó Ông có nhân lực và tài lực...Ông và Hội Pali bắt đầu dịch chữ Pali Sri Lanka sang chữ Anh và Pháp cho những ngưởi nghiên cứu Phật Học Tây Phương.
ta có thể gọi Sir Thomas William Rhys Davids là Trần Huyền Trang - Tam Tạng Anh quốc vậy.

Trần Huyền Trang - Tam Tạng đem sách chữ Ấn dịch ra chữ Trung Hoa , rồi từ đó làn ra khắp vùng Á Châu , nơi nào xử dụng Hán Ngữ thì đọc hiểu kinh Phật.
Còn Ngài Thomas William Rhys Davids thì dịch từ chữ Pali sang Anh ngữ...và quốc gia nào xử dụng Anh ngữ thì đọc được và hiểu kinh Phật.

**** 
Pali là một cái tên được đặt cho loại ngôn ngữ dùng để ghi chép các kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy.

Tuy nhiên, theo cách lập luận truyền thống của các nhà nghiên cứu thuộc Phật giáo Nguyên thủy thì ngôn ngữ trong kinh điển là tiếng Magadhi, một loại ngôn ngữ đã được chính Đức Phật Thích Ca sử dụng để giảng dạy vào thời bấy giờ.
Thuật ngữ “Pali” sơ khởi dùng để nói đến một bản kinh hay một đoạn văn chứ không phải là một loại ngôn ngữ. Cách dùng hiện tại bắt nguồn từ việc hiểu nhầm về nó xuất hiện cách đây vài thế kỷ. Ngôn ngữ trong kinh điển Nguyên thủy là một phiên bản của một loại phương ngữ của vùng Trung Ấn - Aryan, chứ không phải Magadhi. Ngôn ngữ ấy được tạo ra từ sự đồng hóa các phương ngữ mà ở đấy những lời dạy của Đức Phật được ghi nhớ và truyền lại bằng miệng. Điều này trở nên cần thiết khi Phật giáo đã được truyền bá rộng ra khỏi khu vực khởi thủy của nó, và khi Tăng đoàn tiến hành việc hệ thống hóa kinh điển.
Cho tới nay thì hầu hết các kinh điển và những tác phẩm luận giải đã được Hội biên tập và nhiều tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh. Hội muốn hầu hết các công trình của Hội đều được in ra và mỗi năm thì cho ra đời ít nhất hai quyển sách mới và một tập san của Hội.

Hội Văn bản Pali là một tổ chức phi lợi nhuận, ngân quỹ cho sự hoạt động chủ yếu dựa vào các ấn phẩm xuất bản, vào việc đặt mua dài hạn của các thành viên và dựa vào sự ủng hộ của các nhà hảo tâm. Cùng với các hoạt động xuất bản, Hội còn cấp các suất học bổng cho một vài nghiên cứu sinh nghiên cứu về lĩnh vực ngôn ngữ Pali ở một số quốc gia. Đồng thời Hội cũng hỗ trợ dự án Kinh lá bối, một dự án nhằm nhận dạng và bảo tồn những bản kinh được ghi chép trên lá bối ở các nước thuộc vùng Đông Nam Á. 

Ông Rhys Davids là một trong ba viên chức của chính quyền Hoàng gia Anh, được cử qua Tích Lan vào thế kỷ thứ 19. Hai viên chức khác là ông George Turnour và ông Robert Caesar Childers (1838-1876). Vào thời bấy giờ, Phật giáo ở Tích Lan đang phải đấu tranh để tồn tại và phát triển trước những áp lực, điều lệ của ngoại bang và trước hoạt động truyền giáo mạnh mẽ của các đoàn truyền đạo Thiên Chúa giáo.

Trong chính sách thống trị của thực dân Anh, có một yêu cầu đối với tất cả các viên chức nhà nước là họ phải làm quen với ngôn ngữ, văn học và văn hóa của vùng đất mà họ được điều đến làm việc. Chính vì chính sách này cho nên ba viên chức trên đã học với các vị Tăng sĩ lỗi lạc ở Tích Lan. Cùng với việc học văn hóa và ngôn ngữ Sinhala, họ còn được học kinh điển Phật giáo bằng tiếng Pali. Qua đó, họ đã hiểu về giáo lý đạo Phật và hứng thú trong việc nghiên cứu, tu học theo Phật giáo.

Chính vì vậy mà vào năm 1881, Rhys Davids cùng với vợ là bà Caroline Augusta Davids thành lập Hội Văn bản Pali tại Luân Ðôn. Ðây là một tổ chức Phật giáo đầu tiên tại Anh quốc với sự tham gia của nhiều học giả nổi tiếng ở Âu châu và Á châu.

Rhys Davids có đến bốn bằng tiến sĩ (triết học, sử học, ngôn ngữ học và văn chương). Kể từ khi thành lập hội, ông đã dành trọn thời gian còn lại của đời mình cho công việc nghiên cứu, phiên dịch và ấn hành Tam tạng Văn bản Pali (Pali Tipitaka). Ngoài việc tham gia công tác phiên dịch, biên tập…, ông còn biên soạn những sách Phật giáo có giá trị như: Từ điển Pali - Anh (Pali - English Dictionary), in lần thứ nhất vào năm 1921, được tái bản vào các năm 1925, 1992 và 1995; Những câu hỏi của vua Milinda, phần I (Questions of King Milinda, Part 1), xuất bản năm 1890;Lịch sử và văn học của Phật giáo (The History and Literature of Buddhism) xuất bản năm 1896; Những pháp thoại của Ðức Phật, tập I (Dialogues of The Buddha, V.1), xuất bản năm 1899; Lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ (History of Indian Buddhism), xuất bản năm 1903; Giáo lý về nghiệp trong Phật giáo (The Buddhist Theory of Karma), xuất bản năm 2005; Bí mật của đạo Phật (The Secret of Buddhism), xuất bản năm 2005...

Bên cạnh việc điều hành hoạt động của Hội, biên tập, phiên dịch, viết sách báo, Rhys Davids còn đi diễn thuyết nhiều nơi trong nước cũng như nước ngoài. Trong đó, Tích Lan và Hoa Kỳ là hai quốc gia mà ông thường xuyên đến. Ông làm việc không biết mệt mỏi cho đến cuối đời và tạ thế vào năm 1922.

Vào thời điểm đó, Hội Văn bản Pali đã in được 70 quyển kinh sách các loại (cả bản gốc Pali và bản dịch).

Cho đến nay, Hội Văn bản Pali đã trải qua hơn 130 năm, với chín đời chủ tịch, lần lượt như sau:

1 ). 1881-1922: Ông Thomas William Rhys Davids (1843-1922) (người sáng lập).
2 ). 1922-1942: Bà Caroline Augusta Foley Rhys Davids (1857-1942) (vợ của ông Rhys Davids).
3 ). 1942-1950: Ông William Henry Denham Rouse (1863-1950).
4 ). 1950-1958: Ông William Stede (1882-1958).
5 ). 1959-1981: Bà Isaline Blew Horner (1896-1981).
6 ). 1981-1994: Ông Kenneth Roy Norman (1925).
7 ). 1994-2002: Ông Richard Francis Gombrich (1937).
8 ). 2002-2003: Ông Lance Selwyn Cousins.
9 ). 2003-hiện tại: Ông Rupert Mark Lovell Gethin (1957).

Với tôn chỉ phi lợi nhuận, ngay từ những ngày đầu của Hội, Rhys Davids đã nhanh chóng tập hợp được một nhóm học giả, các chuyên gia ngôn ngữ học để biên tập lại Tam tạng kinh điển tiếng Pali.

Nổi bật trong nhóm này có các vị như R. Morris, E. Hardy, M. Hunt, E. Muller, J. Minayeff, E. R. Gooneratne, J. E. Carpenter, E. Windisch, W. Trenckner, R. Chalmers, L. Feer, H. Bode, H. Oldenberg, Wilhelm Geiger, E. B. Cowell, P. S. Jaini, E. W. Burlingame, James Gray, J. S. Speyer, Pe Paung Tin… đồng thời công bố danh sách các mạnh thường quân trên khắp thế giới tài trợ cho công trình vĩ đại này, mà một trong những nhà tài trợ chính cho Hội lúc bấy giờ là vua của Thái Lan.

Công việc của Hội khởi đầu được chia thành hai phần:

Một là in lại toàn bộ Tam tạng Pali để bảo tồn giá trị nguyên thủy của nó
và hai là chuyển ngữ ra tiếng Anh để cho thế giới phương Tây tiện bề học hỏi.

Ðể cho mọi giới biết rõ mục đích của Hội, vào năm 1882, Rhys Davids đã cho xuất bản tập san của Hội (Journal of the Pali Text Society), tờ báo đã nhanh chóng thu hút giới trí thức ở châu Âu.

Vào năm 1994, Hội Văn bản Pali đã khởi động dự án Kinh lá bối. Đây là một dự án nhằm phân loại và bảo tồn những bản kinh Phật giáo được chép trên lá bối ở các nước thuộc vùng Đông Nam Á. Trước khi biết đến việc in ấn và những kỹ thuật in ấn trên giấy của phương Tây, những văn bản ở Đông Nam Á, bao gồm cả những bản kinh bằng tiếng Pali, đã được bảo tồn một cách đặc biệt bằng việc ghi lại trên lá được lấy từ cây cọ dừa. Những chiếc lá ấy được kết lại với nhau để tạo nên một bản thảo hoàn chỉnh.

Mặc dù việc ghi chép trên lá bối chắc chắn đã được sử dụng trước thế kỷ thứ 5, nhưng những bản mẫu hiện còn chỉ có niên đại từ thế kỷ thứ 18 hoặc sau đó, với một số lượng lớn được tạo ra trong suốt thế kỷ thứ 19. Bởi vì chất liệu được dùng để ghi chép là lá bối, và do ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới, những bản thảo từ thời kỳ đầu phần lớn không còn được nguyên vẹn, nhiều bản văn bị hư hại nghiêm trọng. Trong thời kỳ thuộc địa, nhiều bản văn trên lá bối đã bị tháo gỡ và phá hủy, một số trang trong các văn bản đã bị gỡ bán làm đồ trang trí nghệ thuật cho những người sưu tầm đồ cổ ở phương Tây.

Hội Văn bản Pali đã xây dựng dự án Kinh điển lá bối để thu thập, phân loại và bảo tồn những kinh điển này, bao gồm cả việc scan những bản kinh ấy sang phiên bản điện tử để cho các nhà nghiên cứu dễ dàng tiếp cận và tránh nguy cơ bị hư hại. Vào năm 2001, dự án này đã được đăng ký chính thức như là một tổ chức phi lợi nhuận ở Thái Lan. Hiện tại, trong bộ sưu tập của tổ chức này có hơn 5.000 bản thảo với hơn 10.000 đề tài khác nhau. Các bản thảo này đang được scan với sự hợp tác của Viện Nghiên cứu Quốc tế LumbiniNepal. Việc nhập cơ sở dữ liệu thì được Hội Văn bản Pali hỗ trợ.

Theo thông báo chính thức trên trang web của Hội, hiện tại Hội Văn bản Pali đã in và phát hành nhiều nội dung thuộc Kinh, Luật, Luận bằng tiếng Pali. Bên cạnh đó, hội cũng đã tiến hành chuyển ngữ sang tiếng Anh, và đã xuất bản nhiều kinh điển giá trị, điển hình như: “Trường Bộ Kinh” (3 tập), “Trung Bộ Kinh” (3 tập), “Tăng Chi Bộ Kinh” (5 tập), “Tương Ưng Bộ Kinh” (5 tập), “Tiểu Bộ Kinh”, “Chuyện tiền thân của Đức Phật” (6 tập), “Thắng pháp tập yếu luận”, “Pháp Cú sớ giải” (5 tập); “Kinh Bổn Sám” (6 tập), “Truyện cổ Phật giáo” (3 tập), “Kinh Pháp Cú” (tập 1), “Kinh Na Tiên vấn đáp” (2 tập), “Luật Tỳ kheo và Tỳ kheo ni”, “Luận giải về Luật tạng”, “Lịch sử Đức Phật Thích Ca”... Đồng thời Hội đã tiến hành xuất bản được 28 số tạp chí và nhiều sách tham khảo, sách giáo khoa có giá trị, như: “Từ điển Pali-Anh”, “Từ điển tiếng Pali”, “Từ điển những danh từ riêng trong tiếng Pali”,...

Hiện tại, Hội đang đẩy mạnh việc phát triển và mở rộng chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới. Hiện nay, Hội đã có các văn phòng đại diện ở Mỹ,New Zealand, Thái Lan, Ấn Ðộ, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Với những thành quả đáng khâm phục sau 130 năm hoạt động như thế, cho nên mọi thành viên của Hội Văn bản Pali tại Anh quốc luôn nhìn về tương lai, với một niềm tin lớn lao trong quá trình đóng góp công sức của Hội vào việc truyền bá lời Phật dạy đến cho nhân loại, đặc biệt là đến với người phương Tây. Hội Văn bản Pali đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật ở phương Tây cũng như trong việc bảo tồn và lưu giữ kinh điển bằng tiếng Pali.