Mỗi Tết là một chuyển
biến, là một lần đi. Mỗi người thân văn nghệ của tôi ra đi một cách khác nhau.
Họ cũng không chết một cách "thông thường" như những người khác.
Dường như với "người thường" một lần đi là vĩnh viễn, một đi không
trở lại. Người văn nghệ đi nhưng vẫn còn một cái gì đó -ngoài thể xác- ở lại.
Mỗi lần đọc bài thơ cũ xem bức tranh xưa là lại có "đối thoại", như
thể người đi, kẻ ở chưa hề đoạn trở âm dương.
Cuộc tạ từ họa sĩ
Lê Thị Lựu thật đơn giản, tôi đến chào bà ở bệnh viện Antibes, vùng bờ biếc
Côte d'Azur để mai lên đường về Paris, mừng bà bệnh tim đã đỡ, ngày mai
sẽ ra viện. Không nghi ngờ gì đến chuyến đi sắp tới trong vài giờ nữa của bà,
không mảy may nghĩ đến ngày mai không lại, chúng tôi đã tiêu dùng những
giờ khắc cuối một cách rộng rãi, gần như xa xỉ. Bà cười, nụ cười đẹp như ảnh
chụp thời xưa: nụ cười giai nhân mười tám trên đôi môi tám mươi. Bà vẫn kể
những tâm sự dí dỏm như muốn múc cạn quá khứ của mình. Miền Lê Thị Lựu đã qua
là mảnh đất trồng rất nhiều nghệ sĩ, bấy giờ đã thưa thớt, đã tan hàng nhiều
lắm.
Bà nhắc tên những Thẩm
Oánh, Tường Tam, Tường Lân trong màu sắc Mai Thứ, Lê Phổ, thành một hợp âm thủy
tinh. Tiếng bà nổ ran trong đám học trò tinh nghịch Mai Thảo, Thúc Linh như một
tổ khúc. Thế giới xưa trở về trong giao hưởng âm thanh, mầu sắc, tạo nên những
bức ấn tượng đặc biệt, nửa mơ nửa thực, nửa hội họa nửa thi ca.
Tôi vẫn trách sao bà
không viết hồi ký. Bởi cách tạo hình bằng âm thanh -ngoài bút vẽ- của bà có ma
lực xoáy vào lòng người. Nhờ một cơ duyên may mắn, tôi là kẻ duy nhất được tham
dự. Nói "duy nhất" bởi không ai lắng nghe chuyện bà như tôi. Không ai
vừa nghe vừa thưởng thức cái đẹp trong âm thanh và màu sắc phát ra từ giọng nói
ấy, tiếng cười ấy. Ông Tân, chồng bà, cũng hay kể những chuyện ly kỳ thời trẻ
của hai người, thời 30-40, đối với tôi như một thế giới khác, một giấc mộng.
Nhưng lạ là khi ông đi, kỷ niệm cũng trôi theo, không còn gì đọng lại. Bởi ông
không phải là nghệ sĩ, ông không tạo được hoạt cảnh Ðồ Sơn với những nét chấm
phá đậm nhạt, những đổi thay mầu sắc. Còn Ðồ Sơn, Sầm Sơn của bà, đã là một Ðồ
Sơn, Sầm Sơn Lê Thị Lựu, như Ðoan Hùng Thế Lữ, như Long Giáng Khái Hưng. Nhưng
vùng đất Thế Lữ, Khái Hưng đã nhiều người thăm viếng. Riêng mảnh trời Lê Thị
Lựu đơn lạc của tôi, chưa mấy ai tạt vào.
*
Hội họa, đơn lạc và cái chết, Y Dịch Lê Đình Điểu, dường
như cũng có đôi chút duyên nợ. Cả đời làm thơ. Cả đời giấu thơ mình. Nhiều
người biết nhà báo Lê Đình Điểu, nhưng có mấy ai biết Y Dịch nhà thơ. Bà cụ anh
kể: Hồi nhỏ Ðiểu giấu thơ trên nóc nhà.
Điểu chối tội thơ.
Như thể làm thơ là một tội. Nếu biết tôi đang viết những dòng này, ở đâu đó
trên kia chắc anh ngượng lắm. Kệ. Cứ viết. Tôi còn nhớ, cách đây mấy chục năm,
trong một bữa cơm văn bút tại Washington D.C. Tôi lúc ấy lính mới tò te vào
làng văn, từ Paris sang. Lê Ðình Ðiểu đã là nhà báo thời danh, từ Cali lại. Gặp
nhau lần đầu, anh tự nhiên như đã quen từ lâu lắm. Cười cười, tôi đọc:
Ðời tổng hợp bởi
muôn nghìn mặt phẳng
Mà tình ta là quỹ tích
không gian.
Kiếp nhân sinh những hàm
số tuần hoàn
Quanh quẩn chỉ trong một
vòng lượng giác.
Anh không muốn cuộc đời
toàn sin cos
Sống khép tròn công thức
cộng nhân cung
Cạnh góc đời ôi phức tạp
vô cùng
Mà hạnh phúc chính là
đường biểu diễn
Sống yên bình chờ dòng
đời tịnh tiến
Ðâu phải là nghiệm số
của lòng trai
Anh muốn lên tận cực của
thiên tài
Ðể đo lấy bán kính trần
gian vũ trụ... (Tình Toán Học)
Còn mấy câu sau
cùng, tôi quên rồi, ông nhớ không? Tôi hỏi. Anh bối rối. Mặt đỏ bừng, một
dòng sáng long lanh chảy trong mắt. Không lắc. Không gật. Tôi bực, hơi gắt: "Thơ
mình mà cũng quên?". Bấy giờ anh mới lừng khừng: "Thế à?
Chịu." Không phủ nhận. Không xác nhận. Tôi đâm ngờ vực ký ức: Hay mình
nhớ nhầm? Hay không phải thơ hắn? Có đâu mà lầm. Rõ ràng "tác phẩm bất
hủ" của Lê Đình Điểu hồi đó mà những đứa học ban B đều thuộc lòng: Mỗi câu
có ít nhất một từ toán, đặt đúng chỗ, đúng nghiã, rất đắc địa. Bài thơ đăng
trên báo xuân Chu Văn An, tờ báo bán chạy nhất trong các tờ xuân học trò.
"Kiệt tác" của Lê Đình Điểu được nhiều đứa chép lại trong sổ tay như
kinh thi, như sở từ. Và "kiệt tác" đã theo du học đi xa. Từ hơn 30
năm nay, mình vẫn nhớ thơ hắn. Phải là thơ hắn, "ngôi sao văn đàn"
thời đó. Nay gặp đích mặt, phải hỏi hắn mấy câu cuối, để chép vào ký ức dở
dang. Gặp. Hắn chối. Như chưa bao giờ làm thơ. Như một kỷ niệm chưa bao giờ
hiện hữu. Như một Sàigòn văn nghệ học sinh toán loạn "đầy sức sống"
những năm 60 chưa bao giờ có thực. Như những tập báo xuân Chu Văn An chưa bao
giờ được in ra...
Mà làm sao xóa
được. Cả đám học trò con gái thời đó đều "nhất trí" rằng bọn
"Chu Văn Ôn" tuy có ăn phải cái bả Trứ-Quát "thông minh nhất
nam tử, yếu vi thiên hạ kỳ", có trót làm những câu thơ huênh hoang
nhảm nhí "viết ngang trời ba chữ Chu Văn An", bọn đó nhiều tội
lắm, nhưng chúng cũng có chút tài mọn, ít ra là tài làm báo Xuân, hay hơn bọn
con gái. Cứ đến những ngày gần Tết là chúng lại hì hục đem báo Xuân vào trường
con gái bán. Không chỉ bán báo mà lợi dụng tình thế làm quen, dăm ba tên lăm le
chờ chực cổng trường để hộ tống (xe đạp) giai nhân xa giá. Ở chỗ đó, Thầy
Nguyên Sa của chúng đã đi guốc vào bụng học trò: Nàng đến gần tôi chỉ muốn
quay đi, cả những giờ bên lớp học trường thi, tà áo khuất thì thầm chưa phải
lúc...
Thời đi học trôi nhanh,
chúng tôi mỗi người một ngả, không còn dịp gặp lại tuổi học trò. Ngoài Tình
toán học, Điểu có nhiều bài thơ ký tên Y Dịch, thỉnh thoảng đăng đâu đó.
Trong tập Lưu bút
ngày xanh, tôi chép hai bài thơ Y Dịch, nhưng không đề tên. Thơ trong Lưu
bút ngày xanh có lệ không ghi tên tác giả. Nghiã là dù anh là Hàn Mặc Tử,
Xuân Diệu, hay Huy Cận gì, đối với chúng tôi cũng như nhau tuốt. Câu thơ nào
chúng tôi thích thì chúng tôi chép, không cần biết tên tác giả. Và đã được chép
vào Lưu bút ngày xanh là hân hạnh lắm vì chúng tôi sẽ nhớ suốt đời.
Lưu bút ngày xanh rồi cũng phôi pha, thất tán, trong ly hương,
mấy ai còn giữ, nhưng phần lưu tâm khó tuyệt bản trong lòng.
Hôm chị Ðiểu gửi tặng
tập thơ Y Dịch, tôi tình cờ tìm thấy trong Chiều và Mimosa,
những câu thơ đã được mình "tuyển" vào lưu bút:
Ta ngồi đây nhìn chiều
hồng nhẹ chết
Áo hoàng hôn trùm kín
không gian sầu
Ôi mắt em bụi đêm mờ lấp
cả
Phút giây sau tìm chẳng
thấy chiều đâu (Chiều)
Bài Mimosa
dài hơn, có đoạn tôi đã chép lên trang đầu làm lời "tựa" cho tập lưu
bút.
Người đã yêu ai? mười
lăm hay mười sáu
Muốn ngỏ lời bằng lưu
bút ngày xanh
Bằng trang thư màu tím
giấy mong manh
Nhưng vẫn ngại, vẫn run,
hay vẫn thẹn?
Ôi, đắm say tuổi yêu
đương hò hẹn
Xin mách người hãy thổ
lộ bằng hoa.
Xin mách người một đóa
Mimosa
"Tình thứ nhất và
từ lâu câm nín" (Mimosa)
Mimosa Y Dịch là đóa
mimosa đầu tiên của tuổi trẻ. Sau này trên đường đời tôi còn gặp nhiều mimosa
khác, sâu sắc và đớn đau hơn, nhưng đóa hoa đầu được "tuyển" vẫn đẹp
như một di tích cảm xúc nguyên khai, như một lựa chọn lâu dài cho thời còn lại.
Thơ học trò của Y Dịch
đậm dấu Nguyên Sa. Những bài Mimosa, Giãi Bày, Chiều Tưởng Nhớ, Khi Em Chết,
... mang dư âm Cần Thiết, Tuổi Mười Ba... bởi tuổi học trò cần những
bài thơ như thế, nhiều bài như thế, của một tác giả học trò:
Cho dáng em đi
tha thướt trong chiều thu
Cho môi em buồn
cho mắt em thơ
Ðể anh xuyến xao suốt
ngày bỏ bê sách vở (Giãi Bày)
Chùm hoa học trò của
Ðiểu không phải là không có những câu thật hay, thật sâu, thoát khỏi ảnh hưởng
của thầy để trở thành thơ Y Dịch trọn vẹn: "Dăm bông nở muộn lạnh lưng
nhà", đẹp như một vọng ảnh xót xa, một bức tranh buốt giá.
Rồi những khổ đau đã
thấm dần vào thơ. Y Dịch bỏ không gian mười tám, để trầm mình dưới những đợt
sóng ngầm trong huyết quản, lạc loài và ngơ ngác:
Tỉnh ra trên một
chuyến tầu
Giật mình vội hỏi
đi đâu bây giờ? (Hiện Kiếp)
Hiện Kiếp
viết từ hồi trẻ mà đã từng trải, đã có những trăn trở bao trùm cả một kiếp
người:
Mưa nghiêng mặt
lộ đèn buồn
Hàng cây tức tưởi
linh hồn nước dâng
Trán nhăn hiện
kiếp một vầng
Ðường không dưng
chắn mấy tầng building.
Ðiệu buồn bốc tự
tay xanh
Hay từ vô thức một
mình đi hoang?
Mưa nghiêng mặt lộ
đèn vàng
Những luồng bên ấy
thổi sang bên này
Ði về đâu nốt đêm
nay
Ði về đâu nốt kiếp
này người ơi? (Hiện Kiếp)
Năm 60 cũng là năm Điểu
viết nhiều thơ nhất. Có lẽ vì báo xuân Chu Văn An bán chạy, anh được nhiều nàng
ngưỡng mộ, lên tinh thần. Có lẽ vì lúc đó anh đang yêu. Có lẽ vì... hàng trăm
lẽ nhưng chỉ biết sau này vào đời, anh ít làm thơ, hầu như không làm thơ nữa,
trừ một vài bài tặng vợ, chung tình và tha thiết:
Nợ em một sáng
mù sương
Một trưa lộng gió,
một đường lá bay
Nợ em hơi ấm bàn
tay
Nợ em tóc xõa phủ
đầy vai đêm. (Nợ Em)
Bài Mê Cuồng Ca
chắc chắn anh đã chịu ảnh hưởng của Ðinh Hùng. Nhưng từ Mê Hồn Ca Đinh
Hùng, Y Dịch đã tạo được những mê cuồng đớn đau, hoang lạc rất lạ trong
âm thanh và cảnh sắc:
Nghe rùng mình
nghiến xiết điệu ca xanh
Ứ đọng thời gian
gió dựng mây thành
Nghe nhón bước mà
bỗng dưng vắng ngắt
Lá không trở mình
hoa vàng nín bặt
Áo liêu trai nửa
vạt xõa sương lu
Nghìn lối đi bạc
trắng những sa mù
Trong ớn lạnh trở
mình quên tất cả. (Mê Cuồng Ca)
Ở bài Tóc,
vẫn thấy ảnh hưởng Đinh Hùng, nhưng những ngọn triều dâng trong thể xác đã trở
thành một thứ ma quái khác:
Và sẽ nuốt mây
đêm đồi núi cũ
Nghe tê mê rờn rợn
suốt làn da...
Trong khi đêm hờ
hững phủ da ngà
Hồn ngất lịm, gục
đầu trên mái tóc. (Tóc)
Giang hồ, cõi
chết, mộ sâu... là những nét chính trong thơ Lê Đình Điểu. Y Dịch là Tay Ði,
Tên Ði, Kẻ Ði. Người con trai mười lăm, mười tám ấy, lấy tên Y Dịch, vì ôm
mộng giang hồ như Nguyễn Tuân. Không biết trong thực tế, Ðiểu có đi nhiều,
nhưng thơ anh chìm đắm trong một chữ đi. Thế giới viễn du trong tưởng tượng của
cậu trai hai mươi ấy, là hành trình vào gian nan tìm mất mát:
Tầu nhổ neo rồi
đưa người đi
Cây bờ sông xõa
tóc quay về
Người đi nao nức
khung trời lạ
Bỏ lại đằng sau
một-cái-gì? (Khởi Hành)
Bên cạnh nỗi
"đi" là nỗi "buồn" và nỗi "chết". Tất cả giao
nhau trong những ngõ hẻm thị thành, đen sâu, ngậm ngùi, chói buốt:
Bước chân chập
chững đường lầy
Áo bay nửa vạt gót
giầy bâng khuâng.
Ðiệu liêu trai rỏ
thì thầm
Xòe que diêm lại
tối tăm hơn nhiều. (Buồn Kinh Ðô)
Sắc sầu trong thơ
Y Dịch chỉ là những biến sắc, lạc sắc của cuộc đời. Và hiện sinh chỉ là con
đường đi về mộ tối:
Nằm sâu nghe
điệu tạ từ
Tiếng côn trùng
cũng là hư không rồi
Lửa xanh còn chút
này thôi
Thắp hồn thơ sáng
lướt ngôi mộ tàn
Có gì đâu chuyện
thế gian
Tỉnh trăm năm vẫn
trắng bàn tay mơ. (Hiện Sinh)
Thơ Y Dịch đi từ
hồn nhiên trong sáng đến bi quan, u tối, đêm, mộ, như một tất yếu. Sau khi anh
mất, tôi mới biết bài Tốt Ðỏ, Tốt Ðen là của Y Dịch. Bài này đám học trò
Chu Văn An cũ chuyền tay nhau, thu băng với giọng ngâm truyền cảm của một anh
học trò đã thành thượng tọa. Bài này là một truyện thơ, thơ học trò, tự nhiên,
vào đề là lời đối thoại của hai đứa trẻ:
- Tốt đỏ mà đè
tốt đen
Kết nhất bội nhị
là em phải đền.
- Ứ ừ người ta
đang đen,
Không thèm chơi
nữa, giả tiền tôi đây.
- Ơ ơ, bêu chửa cô
này
Bị đè còn khóc giơ
tay đòi tiền
Hoạt cảnh đánh tam cúc
trong ngày Tết đang bày ra sôi nổi, vui tươi, chí chóe, anh được, em thua, cãi
nhau, giận dỗi, dỗ dành... Tự nhiên Y Dịch ném vào một câu thực lãng mạn: Mắt
em như có sương mù đọng mi. Và từ đây là gian nan, là tan vỡ: Chiếu
xô, bài vỡ. Tạ từ thơ ngây để vào đời: Ván bài đời có tốt đen, trăm lần để
kết phải đền cả trăm. Rồi họ xa nhau. Trong bao nhiêu năm? Mươi năm? Mười
năm? Tình cờ gặp lại trong một ván bài khác:
Chiếu điều lại giải ra
ngồi
Cỗ bài sắp lại, em ngồi
tay trên
Tha hồ để kết tốt đen
Anh chui tốt đỏ cho em
đây này.
Run run ép chặt bàn tay
Sợ làng bắt được biết
ngay ... chúng mình.
Anh chui cho lấp điêu
linh
Anh chui cho hết lênh
đênh cuộc đời...
Bài thơ làm năm 57, ở
tuổi hai mươi, anh đã muốn kết toán đời người. Nay anh đã xa, mỗi lần nhẩm lại
những khúc độ đau thương ấy, tôi vẫn thầm hỏi Ðiểu: Thơ ông đấy à? Và
như thường lệ, anh lại trả lời bằng mắt. Không lắc. Không gật. Lại hỏi: Sao
chui sớm thế? Sao lại ra đi? Điểu vẫn làm thinh.
Những người thân của tôi
ra đi đều thế, không ai trả lời về việc bên ấy. Khi còn bà Lựu, tôi thường dặn:
Khi nào bà đi, nhớ về báo cho cháu biết tình hình bên ấy nhá. Bà
gật: Ừ, bà sẽ tìm cách. Nhưng từ hồi ấy không thấy bà về lần nào. Chắc
không có cách.
Anh Tạ Trọng Hiệp,
hình như biết trước nên không hứa gì. Trước hôm đi, anh vẫn còn nhắc: Hôm
nay thứ tư, TK không đi trông cháu còn vào đây làm gì? Anh nhớ thời biểu
của anh, của bạn anh đến chót, anh giữ lễ đến phút chót. Không rên la. Mặc dù
đớn đau khủng khiếp. Anh đi như bậc túc nho, coi cái chết nhẹ như cánh lông
hồng.
Ngọc Khôi thì
không muốn chết. Em sợ lắm. Trên gò má, trũng mắt, những cơn đau đẽo dần em.
Trùng nuốt dần em. Ba tháng cuối, hầu như mỗi ngày em đều nắm chặt tay tôi vặn
hỏi: Tại sao em phải chết? Em chưa muốn chết. Chết là như thế nào? Làm sao trả
lời em được. Chị đã chết lần nào đâu. Mà chị còn phản bội em. Cầu cho em thoát
nạn. Chóng đi. Chóng dứt. Em đi rồi, chẳng thấy về nói cho chị biết chết như
thế nào. Chắc không nói được nên ai cũng làm thinh.
Với Lê Đình Ðiểu, câu
chuyện hơi khác. Tôi ở xa. Thỉnh thoảng hỏi thăm qua điện thoại. Thường được
anh trấn an: Tôi đang đổi thuốc. Ðau còn chịu được. Mọi việc đều đã sắp đặt
xong. Nhưng tiếng Rồi mạnh mẽ, quen thuộc của Ðiểu mỗi ngày một
vắng. Ngày trước, mỗi lần nhờ anh việc gì, khi trong điện thoại vang lên một
độc âm Rồi dứt khoát, là biết việc đã xong. Tôi đã gặp Rồi trong
văn chương Bình Nguyên Lộc, rồi Võ Phiến. Ngoài đời chỉ có một Rồi của Ðiểu.
Rồi của tình bạn, Rồi sống với nghĩa, tín. Nay Rồi đã đi
xa, không còn vang lên nữa... Anh chui cho lấp điêu linh. Anh chui cho hết
lênh đênh cuộc đời. Điểu ơi, sao chui sớm thế? Anh đi
thuyền lướt vào đêm, chúc anh thuận buồm xuôi gió.
Nửa khuya sông
bạc sa mù
Con thuyền mất hút
nghìn thu khôn tìm.
Thụy Khuê
Paris 30/8/2000- 30/1/2011- Tết Tân Mão
Paris 30/8/2000- 30/1/2011- Tết Tân Mão
© Copyright Thuy Khue 2000, 2011